Quan sát. Lắng nghe. Ghi nhận. Chia sẻ

Trật Đường Rầy

3T

Ở trại tị nạn tới gần hết năm 1982, thì tui đi định cư. Trước khi lên đường, đã có “kế hoạch” tới Mỹ là đi làm liền. Lên máy bay, nghe pilot nói tùm lum trên phi cơ. Ráng hết sức, tui mới nghe được một câu duy nhứt: “Fasten your seat belts.” Nghe được có nhiêu đó thôi là thấy “kế hoạch” đi làm bị “trật đường rầy” mất tiêu rồi!

Bởi vậy, xuống tới đất Mỹ phải tính lại. Lẹ lẹ lo kiếm đường đi học. Hồi đó tui cũng gần ba bó chớ đâu có ít. Ở Mỹ đụng cái gì, cũng gặp tiếng Anh. Mà tiếng Anh của tui quá “giỏi,” có hai lớp ESL (English as a Second Language), thì tui học lớp chót.

Trong lớp ESL, tui ngán nhứt là màn viết essays (luận văn). Nói dóc bằng tiếng Việt, chắc tui cũng thuộc loại có hạng. Nhưng tới hồi viết, bứt tóc tới sói đầu mà kiếm hoài cũng không ra chữ. Huống hồ qua tới tiếng Anh, thì còn thua đẹp nữa!

Kỳ đó lớp tui học trúng ông professor là dân thứ thiệt. Có Ph. D. Anh văn, qua tuổi nghỉ hưu từ lâu, nhưng vẫn còn đi dạy vì ổng khoái truyền nghề cho thiên hạ. Bởi vậy “sư phụ” này khó tánh số một về chuyện viết tiếng Anh cho trúng tần số.

Có lần ông professor cho lớp viết essay với đề tài: Kể lại truyện ngắn hay nhứt của xứ mình. Phải nộp cái outline (dàn bài) và sau khi ổng OK, thì mới được viết essay.

Nói tới truyện ngắn, thì người Việt mình có thiếu chi truyện hay. Hồi đó mới qua, còn hăng dữ lắm, muốn đem cái hay, cái lạ của Việt Nam ra giới thiệu cho người Mỹ. Cho nên tui tính kể lại truyện “Từ Thức về trần”1 hoặc “Giấc mộng kê vàng.”2

Nghĩ thêm chút xíu nữa về hai truyện trên là tui thấy tim đập bịch bịch. Hay thì hay thiệt, mà thâm thúy nữa. Nhưng chắc tới kiếp sau đầu thai thành Mỹ con và uống thêm thuốc liều, thì tui mới dám cả gan viết mấy truyện như vậy bằng tiếng Anh.

Tính tới tính lui, thấy tiếng Anh thì nghèo mà tài viết thì bèo, thành ra phải đi kiếm mấy truyện ngắn dễ thiệt dễ để viết. Mà viết có dở, thì ông professor đọc chắc cũng hiểu được chút chút. Như vậy mới mong qua được con trăng của lớp này.

Thời đó là năm 1983, đâu có Google để kiếm truyện tiếng Việt. Nhưng hên thì thôi, tui nhớ ra truyện Tái Ông Thất Mã! Truyện này chánh gốc của Tàu. Nhưng bị… “Việt Nam hóa” lâu đời rồi, nên chắc tui lấy ra xài cũng hổng sao!

Để cho tên truyện nghe hổng giống là của Tàu, tui chế đại ra cái tên mới tinh: The old man, his son, and the mare.

Còn dàn bài cho truyện ngắn “Ông già, thằng con, và con ngựa cái” thì cũng dễ:

  1. Có ông già, thằng con và con ngựa cái, sống ở bìa rừng. Gặp bữa mưa bão lớn, gió thổi sập chuồng làm con ngựa cái mất hồn bỏ chạy vô rừng mất tiêu.
  2. Chòm xóm tội cho ông già gặp xui. Ông già phang ngang: Chưa chắc là xui.
  3. Tới mấy ngày tiếp, vì không quen ở rừng, con ngựa cái kiếm đường về nhà. Còn dụ thêm được một con ngựa đực theo sau.
  4. Chòm xóm khen ông già gặp hên. Ông già nói đâm hơi: Chưa chắc là hên.
  5. Mấy bữa sau, thằng con trai dẫn con ngựa rừng mới theo về ra sân để tập. Gặp thứ ngựa đực cứng đầu, nó quăng thằng con xuống đất té gẫy giò.
  6. Thời gian sau, có lịnh kêu đi “nghĩa vụ quân sự.” Đám con trai cỡ tuổi thằng con ông già bị “trúng tuyển” hết. Còn thằng con ông già được tha.

Cầm cái dàn bài gọn bưng như dzậy đem nộp, thấy chắc như bắp. Ai dè, chưa tới năm phút sau, ông professor kêu lên, đưa trả lại. Trong cái outline, có đề hai chữ “Why?” đỏ chét sau hai chỗ “Chưa chắc là xui” và “Chưa chắc là hên.”

Ngó lời ông professor phê, tui bị “mất phê” liền. Gủy thần ôi, chuyện như dzậy thì nó phải dzậy. Còn ở ngay khúc đó mà cắc cớ hỏi lý do tại sao mà ông già ba tri đó hổng thấy là xui (hoặc hên), thì biết giải thích ra sao để nghe cho đặng?

Đem lên hỏi cái dàn bài của tui trật chi mà bị quăng ra, thì ông professor nói cái dàn bài đó “makes no sense.” Khơi khơi viết “Chưa chắc là xui” mà nguyên cái dàn bài hổng có chỗ nào cho biết lý do tại sao ‘chưa chắc là xui’ thì thiệt là “nonsense!”

Trời đất! Uống nước máy xứ Mỹ chưa được mười hai tháng, cách chi mà tui thuyết phục được ông professor người Mỹ, có nguyên một bụng tiếng Anh, là mấy truyện bằng tiếng Việt của tụi tui phải “bí hiểm” như dzậy mới “câu” được độc giả chớ!

Xách cái outline về chỗ ngồi, rầu thúi ruột. Thấy “trật đường rầy” nữa rồi! Kiểu này ngó bộ là thua trước giờ xổ số.


Đi học, tui phải lấy tới mấy lớp mới đủ 12 units để là full time student thì mới xin được “viện trợ tài chánh” (financial aid). Điểm cũng phải là C trở lên (A là nhứt, F là chót). Còn học mà quá bết, thì qua năm sau, khỏi xin viện trợ làm chi cho mất công!

Tối ngày cắm đầu lo viết essays, tốn thời giờ khủng khiếp, mà cũng không xong và không có đủ giờ học môn khác, là coi chừng hết màn “tưng bừng khai trương” là tới màn “âm thầm tắt bếp.”

Ngó tới, ngó lui, thấy hổng còn giờ, tui chơi màn “tỉnh bơ như người Hà Nội.” Coi như cái dàn bài đã được ông professor chấp thuận và… “cứ thế mà triển khai!”

Phần chi tiết câu truyện, tui viết y chang theo dàn bài. Nhưng để bài essay hổng bị quăng ra, vì “makes no sense” như ông professor nói kỳ trước, kỳ này tui ráng gồng mình, họa thêm chút “phụ đề” và cộng thêm ít “lời bàn,” đại khái như sau:

“Câu truyện trên có ý nói cái xui bữa nay có thể là hạt giống cho cái hên ngày mai. Mà cái hên ngày mai có thể là nguồn lực cho cái xui bữa mốt.”

“Nobody can predict the future. Thus, we just do what must be done today and let the future take care of itself.”

Biết là có “ảo ngôn” trong đó, nhưng làm dzậy là để cho ông professor dễ bắt mắt!

Tới khi nộp bài, cũng còn ngán là ông professor nhớ ra ổng đâu có OK cái outline bài đó. Cho nên tui núp sau mấy đứa trong lớp đi lên đem bài để nộp. Hên thì được con C. Còn xui thì bài bị quăng ra, lãnh con F – cũng giống như là hổng nộp bài!

Ai dè, tuần sau nhận lại bài, mở ra coi, thấy ông professor phê hai chữ: “Wise story!” Và cho điểm tối đa. Khỏi nói, tui mừng còn hơn thằng con trai ông già nghe tin được tha “nghĩa vụ quân sự!” Hồi đó có ai cho tiền, tui cũng hổng ngu gì mà đem lên hỏi tại sao dàn bài bị quăng ra mà bài viết thì được khen Wise story!

Dù phải nín thở để qua sông cho lẹ, nhưng cái tánh ưa thắc mắc của tui nó làm tui bị lấn cấn hoài về chuyện “trật đường rầy” giữa cái outline và bài essay.


Tới năm 1990, tui qua Nhựt đi làm. Có bữa ở trong sở, mấy bạn đồng nghiệp, toàn là người Nhựt, xì xào gì đó với nhau, rồi rủ tui cuối tuần đi thăm một chùa nhỏ ở ngoại ô Tokyo. Ngó bộ mấy bạn này muốn “surprised” tui chuyện chi.

Mà thiệt, tới nơi thấy ông sư trụ trì là người Việt. Hỏi ra mới biết, ông sư qua Nhựt du học năm 1965, hồi đó còn chưa đi tu. Sau khi tốt nghiệp đại học, ổng ở lại Nhựt đi làm. Rồi hồi lâu sau mới đi tu. Cái chùa là của ông thầy giao lại.

Nghe nói chuyện, khỏi hỏi tui cũng biết ổng là dân “Bắc Kỳ chín nút.” Ông sư tự giới thiệu tên là Tâm, và nói tui kêu ổng bằng anh cho dễ nói chuyện.

Mấy bạn đồng nghiệp người Nhựt rất biết điệu, họ xin phép đi thăm mấy chỗ khác gần đó, để hai người Việt xa xứ dễ tâm tình với nhau bằng tiếng Việt.

Nói chuyện xã giao một chặp, cũng hết đề tài. Bỗng khi không tui nhớ tới chuyện hồi còn đi học. Đem ra hỏi anh Tâm vụ “trật đường rầy” giữa outline và essay về “Ông già, thằng con, và con ngựa cái.”

Nghe xong tự sự, và sau khi im lặng suy nghĩ một chặp, anh Tâm nhỏ nhẹ:

“Người Tây phương rất duy lý. Họ ít tin vào cảm nhận vì cảm nhận thường bị chi phối bởi cảm tính phù động. Vì vậy, khi có điều gì xảy ra mà không được lý giải hợp lý, thì điều đó dễ bị họ xem là ‘nonsense.’ Mà khi một sự việc chính trong truyện đã ‘nonsense,’ thì nguyên câu truyện cũng ‘makes no sense.'”

“Đông phương thì hơi khác. Có khi không nhất thiết phải lý giải được hết mọi sự tuần tự theo thứ tự, rồi sau cùng mới có thể hiểu được toàn thể. Nhưng những khi đó, phải lắng nghe, quan sát và ghi nhận diễn tiến toàn bộ các sự việc chung. Khi ‘thông’ được cái ‘chung,’ thì đó cũng là lúc ‘đạt’ được cái ‘riêng.'”

“Như trường hợp bài essay, sau khi ‘thông’ được câu truyện, thì ông professor cũng ‘đạt’ được những lý giải về những sự việc mà trước đó không có giải thích. Đến lúc đó, cái khung duy lý của Tây phương không còn khả năng ‘quản chế’ được sự suy nghĩ và cảm nhận của ông professor nữa.” 

Sau lời giải thích, anh Tâm còn mỉm cười ghẹo tui bằng “tiếng Nam” rặc:

“Đâu có ‘trật đường rầy.’ Hai bên chạy trên hai ‘đường rầy’ khác nhau mờ!”

Nghe vậy, tui thấy nhẹ mình. Cái khúc “trật đường rầy” này nó đeo theo tui từ mấy năm qua, nay được gỡ bỏ. Tui hết lời cám ơn anh Tâm đã giúp “gỡ rối tơ lòng.”

Tới giờ mấy người bạn Nhựt trở lại. Tui cảm tạ mấy anh em đã dẫn tui lên thăm chùa. Rồi cả đám cúi đầu chào và cám ơn nhà sư người Việt đã bỏ giờ ra tiếp khách. Đi lẹ ra ga, mấy đứa bọn tui leo lên xe điện về thành phố.

Tự bữa đó, lời giải thích của anh Tâm về chuyện “không” bị “trật đường rầy” đã thành một bài học quý giá cho tui cho tới bây giờ.

3T – Ngày 01 tháng 6, 2021


Mời Đọc Thêm:



Chú thích

  1. Từ Thức: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB_Th%E1%BB%A9c – Nhà văn Mỹ, Washington Irving (1783–1859), cũng viết một truyện ngắn có không khí “thất lạc trong cõi trần gian.” Truyện ngắn này mang tên Rip Van Winkle https://americanliterature.com/author/washington-irving/short-story/rip-van-winkle
  2. Truyện ngắn Giấc mộng kê vàng: https://thuvienhoasen.org/a33837/giac-mong-ke-vang.

    Hoặc theo một “ấn bản mới,” Chiều Tốc Độ, với những diễn giải rất “khoa học” 😊 https://gopnhatcatda.com/y-tim-loi/truyen-ngan/chieu-toc-do

2 Comments

  1. AD

    Cảm ơn anh 3T. Chỉ riêng câu chuyện Mã Tái Ông đã là câu chuyện hay rồi, truyện này kể lại sự khác biệt trong suy nghĩ Tây-Ta trên nên câu chuyện đó lại càng thú vị. Tưởng là “trật đường rầy”, mà Chưa chắc đã “trật đường rầy”.

    Professor hiểu được một phần là nhờ nhân vật “tui” đã giải thích được cái ý niệm “chung” của câu chuyện (mà tôi cho rằng nhiều người “Ta” cũng chưa thật sự hiểu).

    Lúc đọc tới hai câu này, tôi vừa tâm đắc lại vừa băn khoăn:
    “Câu chuyện trên có ý nói cái xui bữa nay có thể là hạt giống cho cái hên ngày mai. Mà cái hên ngày mai có thể là nguồn lực cho cái xui bữa mốt.”

    “Nobody can predict the future. Thus, we just do what must be done today and let the future take care of itself”

    Hai câu này rõ ràng không cùng phải là “phiên bản” dịch của nhau. Sau mới nhận ra, chúng không phải dịch word-by-word mà là cùng thông điệp, phiên bản Anh và Việt có thể có những “hơi thở” và “cá tính” trình bày khác nhau. Tưởng “Trật đường rầy”, nhưng là hai đường song sinh 😀

    • editor

      > Hai câu này rõ ràng không cùng phải là “phiên bản” dịch của nhau.

      Đúng là câu tiếng Anh không phải là “phiên bản” dịch câu tiếng Việt.

      Trong bài essay viết đem nộp, thì câu tiếng Việt (viết trong truyện) cũng được chuyển sang tiếng Anh, theo đúng nội dung của câu tiếng Việt. Như là một câu để “tóm tắt” các “tình tiết” trong câu chuyện, nhìn theo quan điểm của người Việt.

      Còn câu tiếng Anh ghi thêm là để “giải thích” theo kiểu Mỹ để cho ông professor già ổng khỏi phê vô trong bài là … nonsense, giống như lần làm dàn bài. Hồi đó mà ông professor phê là “nonsense” lần nữa, thì “3T” tui có nước thành… “2 Lúa”!🙏

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *