Tôi không bao giờ gắng sức để tự làm cho cá nhân tôi trở thành anh hùng, và tôi không bao giờ là anh hùng. Tôi không làm điều gì quan trọng, đủ tốt đẹp để khoe khoang hoặc đủ tệ hại để phải viết một quyển sách để biện minh.

I have never strived to make myself out to be a hero, and I have never been one. I’ve done nothing important, either good enough to boast about or bad enough to write a book to justify.

Nguyễn Công Luận, Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier

Tháng 7, 2023, tình cờ tôi đọc được bài phỏng vấn Cao Xuân Huy, tác giả quyển hồi ký Tháng Ba Gẫy Súng, xuất bản năm 1985. Bài phỏng vấn này được trích ra từ quyển Nếu đi hết biển… của tác giả Trần Văn Thủy, xuất bản năm 2004.

Trong bài phỏng vấn trên có nhắc đến nhà văn Hoàng Khởi Phong.

Lần đầu tiên tôi nghe được tên Hoàng Khởi Phong, vào khoảng 1979-80 khi còn ở Sài Gòn, do qua một anh bạn. Là em họ của nhà văn, anh bạn tôi cho biết ông di tản sang Mỹ vào thời 30/4/75. Trước đó, ông là đại úy quân cảnh.

Sang đến Mỹ, từ cuối thập niên 1980 đến đầu thập niên 90, nói đến Hoàng Khởi Phong là phải nói đến quyển Ngày N + … 1 của ông. Khi đó, quyển hồi ký này được xem là hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam hải ngoại.

Lúc bấy giờ, sách báo Việt ngữ ở Mỹ vẫn còn ít. Vì vậy độc giả mau chóng đón nhận tác phẩm mới. Trong không khí đó, tôi đã mua Ngày N + ….

Quyển Ngày N + … xuất bản năm 1988. Có lẽ Hoàng Khởi Phong bắt đầu viết hồi ký này vào năm 1985 — 10 năm sau khi Miền Nam sụp đổ.

Với khoảng thời gian “đủ dài” đó, và nhất là trong tâm trạng của một nhà văn tị nạn bị rời bỏ quê hương, thì hẳn sẽ không phải là một điều quá sai lạc khi tôi viết rằng Hoàng Khởi Phong đã phải rất trịnh trọng và nghiêm chỉnh khi ông mở lại chồng “hồ sơ cũ” để “nhìn” vào người khác, và cũng là để “nhìn” lại chính mình. 

Với 12 năm quân ngũ, cấp bậc sau cùng là đại úy, và đến lúc viết quyển Ngày N + … cũng khoảng 10 năm sống đời tị nạn, thì hẳn tác giả Hoàng Khởi Phong, tên thật là Nguyễn Vinh Hiển, đã có đầy đủ kinh nghiệm sống, cũng như đã có khá đủ thời gian để suy ngẫm, khi cần suy nghiệm và lượng định lại cuộc đời quân ngũ của ông để từ đó rút ra chất liệu hình thành quyển hồi ký trên.  

Tác Giả & Tác Phẩm Ngày N + …

Trong Ngày N + …, Hoàng Khởi Phong đã đề cập đến nhiều vấn đề thời sự quan trọng vào thời điểm Miền Nam đang sụp đổ. Ông cũng ghi lại những “trăn trở,” ngao ngán cùng là bày tỏ sự khinh bỉ của ông đối với nhiều giới khác, đặc biệt là các giới chức lãnh đạo cao cấp của miền Nam thời trước 30/4/75, trong đó có nhiều người ở cấp Tướng và cả các vị nguyên thủ quốc gia. 

Ở đây, người viết bài này không có tham vọng làm công việc phê bình thời cuộc và lượng giá các giới chức có thẩm quyền của Miền Nam vào giai đoạn đó. Vì việc làm này sẽ đòi hỏi một công trình làm việc tận tụy trong một thời gian dài—với một đầu óc khách quan, tinh tế và hiểu biết uyên bác ở nhiều lãnh vực, cùng nhiều nguồn tài liệu giá trị. Và đó toàn là những đòi hỏi mà người viết không đáp ứng nổi.

Tuy nhiên, đối với tác phẩm loại hồi ký, thiết nghĩ, chỉ cần là người đọc bình thường, họ cũng có nhu cầu tìm hiểu con người thực của tác giả viết quyển hồi ký đã sống và suy tưởng như thế nào để có thể hiểu thêm được mối liên quan nhân quả giữa tác giả và tác phẩm đó.

Quả thực, sẽ là một điều cần thiết cho người đọc trong việc tìm hiểu nhà văn Hoàng Khởi Phong đã “nhìn lại” ông như thế nào trong quá trình hình thành quyển Ngày N + …, để có thể có được một lượng định tương đối chính xác về giá trị của quyển hồi ký này—một tác phẩm đã gắn liền với tên tuổi của tác giả.

Bởi đó, bài viết này sẽ đặt trọng tâm vào việc tìm hiểu tác giả Hoàng Khởi Phong, căn cứ trên một số điều mà ông tiết lộ trong hồi ký.

Đầu tiên, có thể nói Hoàng Khởi Phong đã thành công trong việc “tiếp cận” được với độc giả qua những đoạn hồi ký viết tương đối ngắn, như những đoạn nhật ký, ghi lại tâm tình riêng của ông về những sự kiện lịch sử đang xẩy ra.

Mỗi đoạn hồi ký bắt đầu bằng ngày tháng. Tác giả cũng làm mới cách “biên niên” bằng một khuôn mẫu lạ mắt, dễ làm người đọc chú ý: “Ngày N + X, giờ.”

Hoàng Khởi Phong dùng Ngày N để đánh dấu ngày đơn vị của ông rời bỏ Pleiku, là ngày 16-3-1975. Sau đó, Ngày N + X sẽ là ngày 16-3-1975 cộng thêm X ngày.

Ngoài ưu điểm của lối viết hồi ký với những đoạn tương đối ngắn như một nhắn khéo với người đọc là họ sẽ không bị “tra tấn” bởi những gì “lê thê,” thì quyển Ngày N + … còn dễ đi vào lòng người đọc vì đã ghi lại những biến cố tang thương của Miền Nam với nhiều cảm xúc của một chứng nhân và chứng nhân đó cũng là một trong những nạn nhân trong biến cố lịch sử được ghi lại, lấy mốc là Ngày N.

Quả vậy, dọc suốt Ngày N + …, bằng cảm quan riêng, Hoàng Khởi Phong đã ghi lại nhiều “trăn trở” về thế sự, cùng là phê bình về nhiều người khác, “tha nhân” khác.

Con Người Tác Giả

Tuy thế, ở vào những lúc Hoàng Khởi Phong muốn “mở ra” để người đọc có thể “nhìn vào” con người của tác giả, thì ông lại không ghi xuống những “trăn trở” của chính ông về con người thực của mình trong 12 năm quân ngũ. 

Đúng ra, quyển hồi ký cũng có ghi những điều có thể được gọi là “bộc bạch” về những gì đã góp phần hình thành người sĩ quan quân cảnh. Nhưng tiếc thay, những bộc bạch đó lại không đến từ Hoàng Khởi Phong. Mà là đến từ sự tiết lộ của cụ thân sinh của ông:

Trích từ “Ngày N + 34, 7 giờ tối”: 2

  • Rồi cậu lại sai lầm một lần nữa, đáng lẽ cứ để anh ở Biệt động quân, hay vận động cho anh về Nhẩy dù cho hợp với ước mong của anh, thì cậu lại vận động cho anh về Quân cảnh, muốn anh có chút điều kiện để hoàn tất cái học vấn nửa vời của anh. Chỉ vì bao nhiêu người cũng muốn như cậu, muốn con mình an thân, mà bây giờ kết cuộc thê thảm thế này. 

Vào những ngày cuối của cuộc chiến, những phát biểu như trên của ông cụ đúng thực là lời thú nhận buồn bã của một người cha đã thất bại trong việc nuôi con.

Hình ảnh một ông cụ thương con và làm tất cả những gì có thể làm để bảo vệ cho con không phải đi vào lửa đạn là một hình ảnh rất con người và rất cảm động. Cộng thêm lời “xưng tội” thương con của cụ, thì người đọc khó ai lại không thương cảm.

Tuy nhiên, khi dành hẳn phần “Ngày N + 34, 7 giờ tối” ghi lại lời “thú tội” thương con của cụ thân sinh, tôi nghĩ là Hoàng Khởi Phong đã gián tiếp muốn đưa ra lời biện bạch cho chính ông: 

Trước 30/4/75, Hoàng Khởi Phong “đáng lẽ” phải là sĩ quan của một trong hai binh chủng thiện chiến là Biệt Động Quân hay Nhẩy Dù như “ước mong.” Nhưng ông làm sĩ quan Quân Cảnh để được “an thân” không phải ra chiến đấu ngoài chiến trường chỉ vì cụ thân sinh “lại vận động cho anh về Quân cảnh.” 

Như thể đó là một gợi ý:  

Số mạng của Hoàng Khởi Phong (đại úy Nguyễn Vinh Hiển) đã được an bài trong sự bảo bọc của cụ thân sinh luôn “muốn con mình an thân.” Do đó, ông phải chấp nhận “an thân” vì không thể thay đổi được “số mạng đã an bài” đó.

Hãy nhìn thẳng vào thực tế:

  • Đối với người trưởng thành, đã thực sự lao vào đời, nhất là đời binh nghiệp, như Hoàng Khởi Phong, thì lòng thương con của cụ thân sinh chỉ có tác động—nhiều nhất—lên một nửa phần đời sống “bên ngoài” của ông mà thôi.
  • Còn một nửa phần đời sống “bên trong” của Hoàng Khởi Phong—khi trưởng thành và do ông chính yếu góp phần kiến tạo nên con người thực của vị sĩ quan Quân Cảnh—thì lại không thấy nhà văn này đề cập đến chi tiết.

Chân Dung Nhà Văn

Câu hỏi cần được đặt ra ở nơi đây là: 

Đã trưởng thành cả về tuổi đời lẫn khả năng suy tưởng, trong 12 năm quân ngũ, nhà văn Hoàng Khởi Phong có bao giờ tự đứng thẳng được trên hai chân của ông để thực hiện cho bằng được những điều cần phải làm để ông được sống “cho hợp với ước mong” như lời cụ thân sinh của ông cho biết hay không?

Căn cứ theo Ngày N + …, xem ra khi còn tại ngũ, dòng suy tưởng của Hoàng Khởi Phong không có chỗ cho câu hỏi: “Ta đã làm chi đời ta?”  

Có thể vì sợ hãi sự thực, ông đã tránh né, không dám nghĩ đến. Hoặc giả đôi khi cũng có nghĩ đến, nhưng phần trả lời cho câu hỏi trên lại quá tệ hại và xấu xí đến nỗi nhà văn Hoàng Khởi Phong không muốn, hay không dám ghi ra.

Một câu hỏi khác cũng khá hiển nhiên:  

Trong khi phục vụ tại đơn vị Quân Cảnh và để được làm sĩ quan Biệt Động Quân hay Nhẩy Dù “cho hợp với ước mong,” thì đã có bao nhiêu lần ông Nguyễn Vinh Hiển làm đơn tình nguyện quyết tâm xin thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến?

Quả là điều rất dễ hiểu: Từ đơn vị tác chiến xin chuyển về đơn vị không tác chiến thì khó. Ngược lại, từ đơn vị không tác chiến tình nguyện xin ra đơn vị tác chiến thường là điều không quá khó—đến độ không thể thực hiện được.  

Nhưng những điều “rất dễ hiểu” và “không quá khó” này lại là những cánh cửa kiên cố của “nhà tù tâm tưởng” đã biệt giam sự can đảm trí tuệ của Hoàng Khởi Phong trong suốt thời gian ông còn tại ngũ—tính đến ngày 30/4/1975 là 12 năm.

Tệ hơn nữa, sự giam giữ này vẫn còn kéo dài trong khoảng thời gian về sau, ít ra cũng là đến khi quyển hồi ký Ngày N + … được thành hình.

Thực tế phũ phàng mà nhà văn Hoàng Khởi Phong cần phải nhận ra là:

“Ước mong” làm sĩ quan Nhẩy Dù hay Biệt Động Quân của ông bị “đóng băng vĩnh viễn” là do bởi chính ông. Không ai khác!  

Hoàng Khởi Phong đã làm gì để thực hiện ước mong đó của ông? Ông không làm gì cả, mà chỉ lo “an thân!” 

Không có can đảm Ra Khơi, thì không bao giờ Con Tàu đến được Bến Mơ!

Chỉ khi nào nhận chân được thực tế phũ phàng này, Hoàng Khởi Phong mới có thể tỉnh ngộ, và tìm được nghị lực để phá vỡ nhà tù biệt giam, phóng thích sự can đảm trí tuệ của ông.

Chỉ khi đó nhà văn Hoàng Khởi Phong mới có thể tìm được sự an nhiên tự tại để đối diện với mặt “bên trong” của tâm tư và sòng phẳng “đối thoại” với chính ông.

Ngược lại, một khi nhà văn Hoàng Khởi Phong không phá vỡ được sự bưng bít trong tâm thức để ông có thể “nhìn lại mình” một cách trung thực, thì “ước mong” xưa cũ đó rồi sẽ bị “mưng mủ” và biến thái thành một thứ hội chứng (syndrome) luôn đay nghiến và giày vò ông. Không bao giờ chấm dứt.

Chừng nào hội chứng đó còn phong toả tâm tư của ông, thì mọi biện giải của nhà văn Hoàng Khởi Phong—qua văn chương “thông thoáng” của ông—đều sẽ chỉ có thể hiển lộ thành những giả hình vật vã trong vòng quay bất tận đầy những hoang tưởng là bản thân ông đã từ lâu được “giải phóng” khỏi lao tù tâm tưởng!

Mặt khác, cho dù chưa “thanh toán” được “món nợ” tâm tưởng, nhà văn Hoàng Khởi Phong hẳn cũng có lần nghiêm chỉnh thực hiện cuộc hành trình “tìm lại chính mình” với “bản đồ đối chiếu” trên tay là bức Chân Dung Nhà Văn của ông.

Để làm gì? Để ông nhà văn Hoàng Khởi Phong biết được ông sĩ quan Hoàng Khởi Phong thực sự là ai, và đang đứng ở đâu.

Không nhận chân được chính mình và không xác định được “điểm đứng” của mình, thì ông nhà văn sĩ quan đại úy Hoàng Khởi Phong — nhiều nhất — chỉ có thể là một cây bút chuyên kể chuyện huyễn hoặc.

Vì vậy, để cho được khách quan và trung thực, bức Chân Dung Nhà Văn như thế cần được vẽ bởi người khác—rất “hiểu” Hoàng Khởi Phong.

Đáng tiếc là người khác đó, dù có là cụ thân sinh hiểu ông rất rõ, cũng chỉ có thể vẽ được Một Nửa Chân Dung Nhà Văn của ông―thể hiện ở mặt “bên ngoài” mà thôi.

Theo như một ngạn ngữ Tây phương “Half the Truth is Often a Whole Lie”, thì “Một Nửa Sự Thực Thường là Cả Một Sự Dối Trá”. 

Nhưng sự đời không đơn giản chỉ như vậy!

Vì chẳng ai xác định được chính xác đâu là biên giới của “một nửa” giữa “ước mong” và “mộng ảo,” giữa “thực” và “hư” về cuộc đời quân ngũ của Hoàng Khởi Phong; nhất là nỗi ưu tư về đất nước và con người của ông trong Ngày N + …

Theo phần hồi ký “Ngày N + 34, 7 giờ tối:” Hoàng Khởi Phong không về Biệt Động Quân hay Nhẩy Dù vì cụ thân sinh “vận động cho anh về Quân cảnh” dù không hợp với “ước mong” của ông.

Cũng từ phẩn hồi ký trên, người đọc có thể hiểu rằng: Với cá tính ngang tàng và thông minh như lời của cụ thân sinh, “Cậu biết anh thông minh nhất trong năm anh em,” Hoàng Khởi Phong hẳn phải cắn răng hy sinh “ước mong” làm sĩ quan Nhẩy Dù hay Biệt Động Quân để “an thân” trong Quân Cảnh cho đến khi tàn cuộc chiến.

Thế nhưng, mặc dù thông minh và tính khí ngang tàng, Hoàng Khởi Phong đã không bày tỏ ý kiến “thuận” (cảm ơn) hay “nghịch” (trách móc) cụ thân sinh đã “vận động cho anh về Quân cảnh” để “an thân” dù không hợp với “ước mong” của ông.

Thực vậy, vào lúc 7 giờ tối, Ngày N + 34: Trước thâm tình phụ tử được cụ thân sinh bộc bạch giãi bày, Hoàng Khởi Phong chỉ lẳng lặng ngồi nghe, và đón nhận với không chút cảm xúc bộc lộ—đúng theo “nghi thức” giao tiếp chuyên nghiệp của một ngòi bút lão luyện: Im Lặng Là Vàng!

Sự im lặng “đúng lúc” này có tác dụng như một bản lề đã trơn tru hoá và linh động hoá việc “tái phối trí” hai gương mặt Trong và Ngoài; Thực và Hư nơi Chân Dung Nhà Văn Hoàng Khởi Phong.

Sự im lặng “chiến lược” đó còn chứng tỏ “tư duy chữ nghĩa” của Hoàng Khởi Phong rất trác tuyệt khi tạo dựng Chân Dung Nhà Văn cho chính ông.

Sống ‘cho hợp với ước mong của anh’

Trở lại thời năm 1972, Mùa Hè Đỏ Lửa, chiến sự mãnh liệt lan rộng khắp nơi.

Khi đó, ông Phạm Văn Bính, cựu Thủ Hiến Bắc Việt, người có nhiều quen biết, thế lực, có người con là anh Phạm Lê Phong du học bên Pháp.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật (hay Hóa), anh Phạm Lê Phong đã về lại Việt Nam và tình nguyện gia nhập binh chủng Nhẩy Dù. 

Trong Mùa Hè Đỏ Lửa, anh Phạm Lê Phong đã hy sinh tại mặt trận Quảng Trị.

Xin trích một phần từ Hồi Ký Về Phạm Lê Phong, của Trần Hồng Phú, đăng tại: https://nhayduwdc.org/bv/hk/nd/2019/plp/ndwdc_bv_hk_nd2019_plp_hkphamlephong_2019SEP24_tue.htm:

Trích:

Đây là một sự kiện lạ đối với tôi, vì thân phụ của Phong là nhân vật nổi tiếng, tôi nghe nói Ông đã từng là Thủ Hiến Bắc Việt một thời và hiện Ông là chủ nhiệm một tờ báo khá nổi tiếng ở Sài Gòn. Tôi đang rất bận rộn nên bốc phone xin cáo lỗi không thể gặp ngay được và hẹn khi nào rảnh sẽ tới thăm. Sau đó, có lần tôi gặp Phong hỏi về truyện này, Phong ngớ ra không biết gì hết. Vài hôm sau tôi gọi điện thoại gặp ông cho biết ông đang rảnh, tôi xin đến thăm ông.

Trong cuộc nói truyện tôi được biết ông có hai người con đã hy sinh trong cuộc chiến, một người là phi công, người kia tôi không nhớ. Phong đang du học ở Pháp và còn cơ hội tiếp tục học lên nữa, nhưng nhất định xin về. Với hoàn cảnh này, Phong có thể xin MIỄN DỊCH, và lại một lần nữa Phong quyết định không xin để rồi đi vào Thủ Đức. Thân phụ của Phong lại tự mình vận động cho con. Một ông tướng Không Quân muốn Phong về với KQ, một ông tướng khác ở BTTM bằng lòng nhận Phong về với ông, Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị cũng bằng lòng nhận Phong và thậm chí nếu Phong muốn ở lại Trường Bộ Binh TĐ cũng được, v.v.

Trở lại vấn đề của Phong. Sau khi chấm dứt Chiến dịch, trở về Trường, đôi ba lần tôi gọi Phong lên văn phòng Tiểu đoàn nói truyện, thường là vào buổi tối. Trong lúc trò truyện, gọi là trò truyện chứ thật tình Phong rất ít nói. Chỉ dạ… dạ… và cám ơn… cám ơn… vậy thôi. Tôi còn nhớ tuyệt đối tôi không khuyên Phong gì hết mà chỉ gợi lại những tình cảm, những lo lắng của người cha cũng như của gia đình. Khi tiếp xúc với thân phụ của Phong, ông cụ không nhờ vả gì tôi hết nhưng tôi vẫn hiểu ý cụ muốn gì. Cũng vậy, tôi không khuyên Phong mà Phong cũng biết ý của tôi, cho nên lần cuối cùng nói truyện chấm dứt, tôi bắt tay Phong, Phong cám ơn tôi và nói:

– Em đã quyết định rồi.

Tôi không hỏi Phong đã quyết định gì, vì có hỏi chưa chắc Phong đã nói. Vả lại tôi cũng muốn tôn trọng cái riêng tư của Phong nên đành chờ cho tới ngày K4/71 tập trung tại Hội Trường để chọn đơn vị.

Cuối cùng thì như mọi người đã biết, Phong tình nguyện về Binh chủng thiện chiến nhất của QLVNCH: Nhảy Dù. Trong thâm tâm tôi vẫn thầm phục một đàn em đầy quả cảm và đầy ý chí!

Hồi Ký Về Phạm Lê Phong, tác giả Trần Hồng Phú

Thật quá sức đáng tiếc vì:

  • Ngày 29/7/1972: Anh Phạm Lê Phong, Khoá 4/71 Sinh viên Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức, ra trường và đi thẳng về đơn vị Nhẩy Dù anh đã chọn.
  • Ngày 30/7/1972: Anh đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị.

Từ đó đưa đến câu hỏi: Một khi Phạm Lê Phong quyết tâm thực hiện “ước mong của anh” là đi Nhẩy Dù, liệu thân sinh của anh, cựu Thủ Hiến Bắc Việt, có thể nào “vận động” để ép buộc được anh phải phục vụ trong đơn vị không tác chiến?

Câu trả lời ngắn gọn:  KHÔNG. 

Bởi thế, Hoàng Khởi Phong đã làm điều quá tồi tệ khi đưa cụ thân sinh ra làm chứng nhân để “chính danh hóa” cho ông trong việc “về Quân cảnh” để “an thân:”

“Rồi cậu lại sai lầm một lần nữa, đáng lẽ cứ để anh ở Biệt động quân, hay vận động cho anh về Nhẩy dù cho hợp với ước mong của anh, thì cậu lại vận động cho anh về Quân cảnh, muốn anh có chút điều kiện để hoàn tất cái học vấn nửa vời của anh. Chỉ vì bao nhiêu người cũng muốn như cậu, muốn con mình an thân, mà bây giờ kết cuộc thê thảm thế này.”

35 năm trước, đọc đến đoạn hồi ký “Ngày N + 34, 7 giờ tối,” trích bên trên, tôi đã phải tự hỏi:

Tinh thần trách nhiệm và lòng tự trọng của một người đàn ông nơi Hoàng Khởi Phong đã đi đâu vắng để ông có thể đường đường chính chính “an thân” dưới ô dù “vận động” của cụ thân sinh suốt 12 năm quân ngũ?

Sống an thân cho đến khi nước mất nhà tan, rồi lại giương cao tấm lòng thương con của cụ thân sinh để  “trần tình.” Nhằm “gợi ý” là vì ông cụ như thế cho nên Hoàng Khởi Phong không được ra chiến đấu ngoài mặt trận.

Quả là một cao luận quá thuyết phục của ông nhà văn đầy khí phách hào hùng!

Một điểm đáng lưu ý khác:

Hoàng Khởi Phong viết hồi ký Ngày N + … khi ông đã sống đời tha hương tị nạn được 10 năm hoặc hơn. Nhưng qua cách đối xử với cụ thân sinh của ông, như phô diễn trong đoạn hồi ký trên, xem ra nhà văn này vẫn không thể hiểu được rằng người chịu trách nhiệm về cuộc đời của ông phải là ông, và không phải là cụ thân sinh của ông.

Lần đầu tiên đọc Ngày N + … vào năm 1988, tôi còn khá trẻ.  Ngay khi đọc xong phần “Ngày N + 34, 7 giờ tối,” tôi đã không thể không buông ra những lời lẽ không đẹp. Lúc đó, tôi đã tự trách mình đã quá hoang phí tiền bạc và thì giờ, mua và đọc sách của một anh phù thủy chữ nghĩa. 

Văn hay chữ tốt tung tăng bay lượn khắp nơi trên các trang hồi ký Ngày N + …

Nhưng đến phẩn “Ngày N + 34, 7 giờ tối,” thay vì “tự bạch” thì anh phù thủy chữ nghĩa lại đẩy cụ thân sinh ra để “tự khai” là đã quá thương con!

Cũng tựa như trong buổi giới thiệu tác phẩm mới xuất bản, đến lúc cần chia sẻ với độc giả về “quá trình chiến đấu” của mình trong “30 giây nói thật,” thì tay phù thủy máu lạnh này lại đưa tay chỉ sang cụ thân sinh, và tỉnh bơ “thuyết minh:”

Bố tôi không cho tôi đi Biệt Động Quân. Cũng không “vận động” để tôi về Nhẩy Dù “cho hợp với ước mong.” Mà chỉ “vận động” cho tôi sang Quân Cảnh. Rồi tôi ở đó cho đến ngày mất nước. Nhưng bởi vì có quá nhiều người cha thương con, như bố tôi, cho nên “bây giờ kết cuộc thê thảm thế này.”

Nghe đến đây, và chờ mãi vẫn không thấy anh phù thủy nói gì thêm, mới chợt hiểu ra “im lặng vô tuyến” ở đây “hàm ý” một “thông điệp” ngầm:

Về phần tôi, Hoàng Khởi Phong, thì rất “trong sáng.” Vì tôi hoàn toàn “đứng ngoài” mọi chuyện bố tôi “vận động” cho tôi được “an thân” không phải ra chiến trường.

Đây đó trong “văn chương Hoàng Khởi Phong” có chỗ có điều hàm ý được “mã hoá” bằng lớp vỏ ngoài tình cảm. Những khi xúc cảm dâng cao, người đọc dễ bị lớp vỏ ngoài này làm cay mắt, không nhận ra được những hàm ý.

Nhưng khi tỉnh trí đọc “văn chương Hoàng Khởi Phong,” thì người đọc có thể “giải mã” được lớp vỏ ngoài tình cảm. Lúc đó mới hiểu được thâm ý bên trong những hàm ý mà Hoàng Khởi Phong âm thầm gửi gắm.

Đáng tiếc, khi hiểu ra được thâm ý trong “văn chương Hoàng Khởi Phong,” thì lại thấy thứ văn chương này Nhớp như Lươn, Nhờn như Rắn.

Dân Tác Chiến “Thứ Thiệt”

35 năm trước, sau khi đọc Ngày N + … , tôi cảm thấy quá lãng phí khi bỏ ra đồng tiền khó kiếm để mua quyển hồi ký này. 

Đến nay, tuổi tác và mắt nhìn đời đều đã khác xưa, tôi lại thấy mất đi độ chục Mỹ kim để nhận chân được giá trị của ông nhà văn nổi tiếng, thì xem ra vẫn còn hời!

Cách đây khoảng 20+ năm, tôi có đọc hay nghe được ở đâu đó về việc Hoàng Khởi Phong cùng một số nhà văn/thơ chủ trương (hay kêu gọi) kết hợp hay hợp đoàn lưu diễn để làm điều gì đó cho văn học nghệ thuật Việt Nam.

Thực sự thì tôi không biết tin đó đúng hay sai.  Nhưng lúc đó tôi đã tự bảo mình:  

Quên các quan này đi. Các quan này mà khua chiêng gõ trống làm trò “Kết hợp” hay “Hợp đoàn Lưu diễn” gì đó cho “văn học, nghệ thuật” Việt Nam, thì xem ra cuối cùng cũng chỉ là để giải toả một số ẩn ức tâm lý nào đó của các quan.

Theo cách nói “đương đại” thì làm như vậy là còn để … “selfie!” Xin hoan hô Google Translator đã rất sáng tạo khi dịch chữ “selfie” sang Việt ngữ rất “chỉnh” là… Chụp hình tự sướng!!!

Chẳng hạn như muốn “selfie” cho oai thì phải lấy geste, lên gân phát ngôn—”ngon lành” như dân tác chiến “thứ thiệt”—rồi “lên hình,” tự ngắm và… “tự sướng” như người hùng thay vì xoàng xĩnh như một anh lính chuyên núp bóng sau bộ quân phục như một thứ môn bài trốn quân dịch.

Riêng về hai chữ “thứ thiệt” trong ngoặc kép bên trên, thiết tưởng cũng nên trích lại đoạn Trần Văn Thủy (TVT) phỏng vấn Cao Xuân Huy (CXH):

TVT: Trong thời gian chiến tranh, điều gì anh đinh ninh trong vị trí của một người cầm súng?

CXH: Anh cũng định hỏi tôi, tại sao có ông bố ở ngoài Bắc mà lại đi cái thứ lính dữ dằn ấy phải không? Giản dị lắm anh ạ. Vốn dĩ tôi là người ghét chiến tranh, tôi không chấp nhận được chuyện anh em, có khi ruột thịt, bắn giết nhau vì hoàn cảnh mà phải ở hai miền khác nhau của đất nước. Chiến tranh không do những người cầm súng quyết định, và những người quyết định chiến tranh thì lại không bao giờ phải cầm đến khẩu súng. Tôi trốn lính đấy chứ. Nhưng khi trốn không được nữa, thì tôi đành phải đi lính thôi. Mà đã đi lính thì phải là lính “thứ thiệt”. Tôi tình nguyện vào một binh chủng chuyên đánh trận, và hầu như chỉ đánh những trận lớn, dữ dội mang tính quyết định ở từng mặt trận. Thú thật với anh, tôi đánh trận thuộc loại khá, và ở một đơn vị thiện chiến nhất nhì của miền Nam.

Xem thế thì có thể thấy cái mặc cảm đi lính “thứ thiệt” (hay không) là điều có thực và không phải là điều tưởng tượng do tôi tự chế ra.  

Còn có dám huỵch toẹt nói thẳng ra “mặc cảm” này như Cao Xuân Huy, hay lại vòng vo, vẽ vời tạo ra đủ thứ “ngụy trang” để đánh lạc hướng dư luận, để tự bào chữa, hoặc để… “selfie” (tự sướng) thì đó lại là chuyện khác.

Tâm tư và Tư cách

Cũng đừng nghĩ tôi đã xem thường lòng can đảm và sự quả cảm của những vị phục vụ trong những đơn vị không tác chiến, quân sự hay bán quân sự. 

Như trường hợp của ông Nguyễn Công Luận là một điển hình. Ông học Khoá 12 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt và là người mà cá nhân tôi được vinh dự gọi ông là Niên Trưởng (NT) vì tôi học Khoá 31, khoá cuối cùng của Trường Võ Bị.

Lần cuối gặp ông vào năm 2013, NT Luận có chia sẻ với tôi là trước 30/4/75 ông du học tại Hoa Kỳ. Lúc tình hình Nam Việt Nam quá bi đát, có vài sĩ quan Mỹ, bạn đồng khoá, khuyên ông đừng về vì xem ra Miền Nam sẽ mất.

Nhưng NT Luận đã trả lời là ông phải về lại với đơn vị, với đất nước dù ông cũng biết rằng làm như thế là lên đường về chỗ chết.  

Trong khi Miền Nam đang tan rã, thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn trước ngày 30/4/1975, ông đã trở về Việt Nam. Như một Người Lính đang tìm về đơn vị.

NT Luận sinh năm 1937. Thân phụ ông gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng vào năm 1927. Và ông không hề có ảo tưởng về cộng sản.

Sau 30/4/75, NT Luận bị đày đoạ trong các trại tù cộng sản gần biên giới Hoa Việt. Đến Mỹ vào năm 1990, sức khoẻ của ông suy thoái trầm trọng, hậu quả của nhiều năm trong lao tù cộng sản. Rồi bệnh Parkinson ngày một gia tăng… 

Nhưng ông vẫn âm thầm… Vẫn miệt mài… Viết.

Ông viết:  

  • Không để cho thấy “đáng lẽ” ông phải là lính tác chiến “thứ thiệt” trong binh chủng Biệt Động Quân hay Nhẩy Dù.
  • Không để giải toả mặc cảm phạm tội đã bỏ ngũ trong giờ phút chót.
  • Không để tìm cách đưa ra những “giải thích” nhằm đổ lỗi cho người khác.
  • Không để gián tiếp tôn vinh cá nhân như là một nhà văn luôn “thao thức” trước “sinh mệnh” của đất nước.3

Mà, tôi nghĩ, động lực chính thúc đẩy ông phải viết là để lại cho những thế hệ đi sau, những nhà biên khảo, cả Việt, lẫn Mỹ, những điều mà chính ông đã trải qua, đã tận mắt chứng kiến trong cuộc chiến tranh quốc cộng tại Việt Nam. Nhất là không để tiếng nói của người Việt quốc gia hoàn toàn bị xoá bỏ trên diễn đàn quốc tế.

Một trong những tác phẩm của tác giả Nguyễn Công Luận là quyển hồi ký gần 600 trang Anh ngữ: Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier, Indiana University Press phát hành ngày 7 tháng Hai, 2012.

Nhìn vào đó để thấy rằng lòng can đảm và sự quả cảm của một người trong tập thể Quân, Cán, Chính không nằm ở nơi quân phục hay màu cờ, sắc áo của đơn vị.  

Mà lòng can đảm và sự quả cảm đó nằm ngay trong chính tâm tư và tư cách của từng mỗi người. 

Văn Chương Cảm Tính

Như đã ghi bên trên, quyển hồi ký Ngày N + … dễ đi vào lòng người đọc vì đã được nhà văn Hoàng Khởi Phong ghi lại với nhiều cảm xúc của ông như là một chứng nhân và cũng là nạn nhân thấp cổ bé miệng trong biến cố lịch sử của Miền Nam.

Trong một tác phẩm, nếu ghi lại được tiếng nói, tiếng khóc than hay nói cho đúng hơn là nỗi thống khổ tột cùng của nạn nhân, với nhiều cảm xúc của một chứng nhân, thì bao giờ cũng dễ khơi động được lòng trắc ẩn của người đọc.

Yếu tố cảm tính trong một tác phẩm đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút và lôi cuốn độc giả. Một khi cảm tính đã chiếm ngự trọn vẹn được người đọc, thì người đọc sẽ dễ dàng bị thuyết phục. Đến lúc đó, họ sẽ đón nhận tác phẩm với ít hoặc không một thắc mắc.

Như trong phần nhà văn Hoàng Khởi Phong viết về việc mãn khoá của hai khoá đang học năm thứ 3 và năm thứ 4 của Trường Võ Bị:

“Ngày N + 38, 7 giờ tối

“Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt đã dời về Long Thành. Lễ mãn khóa diễn ra trong một bầu không khí u uất, ở một doanh trại điêu tàn của Mỹ để lại. Những sinh viên sĩ quan của hai khóa chót ra trường cùng một lúc. Họ giống như những trái cây bị ép non, có một lớp vỏ ngoài đẹp đẽ của những trái chín, nhưng lớp ruột bên trong còn sượng, chưa đủ già. Họ đã mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận. Mặt trận đâu có xa xôi gì, nó lởn vởn ngay ngưỡng cửa Long Thành, và cách cổng quân trường chưa đầy một cây số.”

Đọc đoạn hồi ký trên, hẳn người đọc không khỏi bùi ngùi thương cảm cho những người trai không chút kinh nghiệm chiến trường nên “Họ đã mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận” khi “mặt trận” chỉ “cách cổng quân trường chưa đầy một cây số.

Mấy ai lại chẳng mủi lòng thương cho những người trẻ đang “xếp hàng” tiến vào cõi chết ngay tại những phút sau cùng của Giờ Thứ 25?

Thế nhưng, sự việc thương tâm được Hoàng Khởi Phong mô tả trong phần hồi ký “Ngày N +38, 7 giờ tối,” với những xúc cảm bi hùng, thực ra chỉ là sản phẩm của một trí tưởng tượng đầy kịch tính và hoàn toàn sai sự thực.

Bởi vì:

  1. Lúc đó cộng quân đang bị cầm chân tại Xuân Lộc, còn cách Long Thành khá xa, chứ không phải rất gần “cách cổng quân trường chưa đầy một cây số.
  2. Chẳng có vị sĩ quan chỉ huy nào trong Võ Bị lại có thể ngu xuẩn đến độ ra lệnh cho toàn thể các sĩ quan mới ra trường “mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận.”
  3. Chẳng có anh sĩ quan Võ Bị nào, dù mới ra trường, lại có thể ngốc nghếch và điên rồ đến độ “mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận” để làm… bia bắn cho đạn địch!

Nhìn ảnh bên dưới của các sinh viên sĩ quan Võ Bị trong quân phục đại lễ là có thể thấy sự phóng đại lố bịch và cường điệu hoá quá mức đến độ trở thành nhảm nhí của Hoàng Khởi Phong khi ông viết: “Họ đã mặc đồ đại lễ tiến ra mặt trận.

Sinh viên sĩ quan Võ Bị trong quân phục đại lễ, ảnh chụp tại Trường Võ Bị

Trong cố gắng tìm hiểu thêm để cho được khách quan và chính xác, tôi đã liên lạc với một số cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị để hỏi về việc mãn khoá vào tháng 4/1975.

Được sự ưng thuận của anh Huỳnh Tiến, Khoá 28, một trong những người mãn khoá vào lúc đó, tôi xin đăng lại nguyên văn email trả lời của anh:

From: Tien Huynh 

To: 3T 

Sent: Monday, August 7, 2023 at 12:13:23 PM PDT

Subject: Re: Xin hình và vài dòng v/v ra trường đeo lon thiếu uý

Hi anh Tín

Anh nói đúng, tay Phong này chỉ viết theo sự tưởng tượng tào lao. 

Ngày 21/4/75 khóa 28 & 29 ra trường lại Long Thành, (cũng là ngày TT Thiệu từ chức), Buổi lễ được tổ chức rất là đơn giản dưới sự chủ tọa của Trung tướng Nguyễn Bảo Trị. Toàn bộ hai khóa 28 & 29 đều mặc đồ tác chiến, được phát bông mai, sau khi quỳ xuống SVSQ và đứng dậy Tân Sĩ Quan, chúng tôi tự gắn lon Thiếu úy cho nhau, sau đó ba lô súng ống đạn dược bước lên GMC ra đơn vị đã chọn ngay sau đó. (khi di tản ra khỏi trường mẹ, chúng tôi chỉ mang theo súng đạn và đồ tác chiến cá nhân, còn tất cả Đại lễ, tiểu lể, Jasper, worsted đều bỏ lại ở trường). Tôi còn nhớ rõ Thiếu Tá Dục, ông khóc trên Micro trong buỗi lễ: ” Chưa có cái khóa nào ra trường mà …như khóa các anh …”

Chiến sự lúc đó Cộng quân đang bị cầm chân ở Xuân Lộc, làm gì có chuyện mặt trận cách Long Thành chưa đầy cây số.

Rất tiếc là tôi không có được hình ảnh nào của K28&29 ra trường tại Long Thành

Anh có thể tìm thêm chút tài liệu ở website K28 do anh Nguyễn Sanh K28 viết: K28/TVBQGVN

Thân chúc anh và gia đình khỏe mạnh

Tien Huynh K28

Đối với những người trong cuộc—như các cựu sinh viên sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt của bốn khóa sau cùng—thì trong phần hồi ký “Ngày N + 38, 7 giờ tối” quả thực Hoàng Khởi Phong đã “viết theo sự tưởng tượng tào lao.”

Và đối với những người bàng quan ngoại cuộc, một khi sự thực được phô bày thì cũng khó có ai có thể “biện hộ” được cho Hoàng Khởi Phong, tác giả của Ngày N +…, là nhà văn này đã không phóng bút “viết theo sự tưởng tượng tào lao.”

Để cho được công bằng với nhà văn Hoàng Khởi Phong, thì cũng phải nói rằng những “tưởng tượng tào lao” như thế cũng có xuất hiện trong “tác phẩm” văn chương của nhà văn khác.

Những quý vị này thích “luận” chuyện chiến tranh qua lời nghe kể lại. Những lời kể lại đó được xem như là “chất liệu văn chương” và được “ủ” thêm trong men bia/rượu hoặc thuốc lá. Rồi cứ thế họ say sưa tiêu thụ các “chất liệu văn chương” đó để “sáng tạo” ra đủ mọi chuyện chinh chiến, bất kể hư hay thực!

Với những nhà văn thuộc trường phái “sáng tạo” như trên, họ thường chẳng bao giờ chịu dành ra đầy đủ thì giờ và đầu tư tâm trí đúng mức trong việc cẩn trọng nghiên cứu và phối kiểm kỹ càng những gì họ muốn viết ra mà chưa thực sự nắm vững, và nhiều khi rất vô lý.

Nói một cách khác, những nhà văn thuộc loại nói trên không hề có được một tinh thần trách nhiệm đúng đắn đối với ngay chính những đứa con tinh thần của họ.

Tạm Kết

Một tác phẩm văn chương sẽ không thể đạt được giá trị nghệ thuật cao, cũng như sẽ không thể đứng vững được trước sự thử thách của thời gian, nếu như tác phẩm đó chỉ đặt nặng trên cảm tính, và chỉ chú trọng vào việc khai thác lòng trắc ẩn hay thương cảm, bi lụy nơi người đọc.

Vì khi thiếu vắng sự can dự tích cực của lý trí để xét nghiệm sự thể xẩy ra xem có hữu lý hay không, hoặc không có đủ nghiêm chỉnh và khắt khe trong việc phân định hư-thực, tưởng tượng hay tin đồn nhảm, mà chỉ đặt nền móng trên phần cảm tính—rất phù động, thì tác phẩm đó sẽ “vững chãi” như một lâu đài xây trên cát.

Mặt khác, viết hồi ký là để ghi lại những điều đã xẩy ra, trong đó có thể có điều riêng tư của tác giả mà người đọc không thể biết được. Bởi đó, người đọc khó có chọn lựa nào khác hơn là bắt buộc phải tin vào những gì tác giả viết xuống.

Do vậy:

  1. Điều quan trọng hàng đầu phải là sự thành thực của tác giả.
  2. Kế đó, sự việc được ghi nhận trong hồi ký phải hết sức chính xác.

Giá trị đích thực của một quyển hồi ký tùy thuộc vào hai yếu tố “sinh tử” nói trên.

Nếu tác giả không thành thực, hoặc sự kiện ghi nhận bị sai lạc do bởi tưởng tượng, phóng đại, hoặc do bởi tin đồn thất thiệt, hay không thể kiểm chứng, thì quyển hồi ký đó không còn đáng được tin cậy và cần được xếp vào loại tiểu thuyết “hư cấu” thực-hư lẫn lộn.

Quyển hồi ký Ngày N + … của Hoàng Khởi Phong cũng không phải là một ngoại lệ để không cần xét đến cả hai yếu tố quan yếu nói trên.

Trong sự xét nghiệm và lượng định giá trị thực sự của một quyển hồi ký—đặt căn bản trên hai yếu tố Thành ThựcChính Xác như ghi bên trên—thì quyển hồi ký Ngày N + … đã bị hỏng cả hai.

Đáng tiếc, qua quyển hồi ký Ngày N + …, Hoàng Khởi Phong còn đã đánh mất sự chính trực (integrity) của ông—vốn là một điều bắt buộc phải có nơi một nhà văn.

San Jose, Ngày 02 Tháng 11, 2023
Trần Trung Tín


Mời Đọc Thêm:


Chú Thích:

  1. Có thể đọc quyển hồi ký Ngày N + … tại:

  2. (Hồi ký) Ngày N + 34, 7 giờ tối

    Cha tôi và tôi ngồi ở quán cà phê Năm Đường, đối diện với nhà tôi qua đường Trần Quốc Toán. Mọi khi giờ này quán không có một chỗ ngồi, những bác tài taxi, những bác phu xe phải đứng chờ tại quầy nhận ly cà phê, rồi đem thức uống của mình ra xe nhấm nháp. Hôm nay quán chỉ có lác đác vài người và cha con tôi. Ông cụ rủ tôi ra uống ly cà phê, cha tôi tuyệt không nói một câu nào về việc chạy ra nước ngoài hay ở lại. Những gì định nói, ông cụ đã nói hôm tôi mới về tới Sài Gòn. Đã mười ngày nay ông cụ câm nín, lặng lẽ ra vào, săn sóc tôi một cách kín đáo. Con đường Trần Quốc Toản hôm nay cũng vắng vẻ lạ thường. Tiếng cha tôi vang lên:

    “Ngày đó phải để anh ở Cô nhi viện gần một năm, khi đón anh về cậu có một điều sai là chiều anh quá để bù lại những ngày anh phải thiệt thòi, khi sống xa nhà với những trẻ mồ côi khác. Đến khi anh đậu Trung học, bắt đầu đua đòi, cậu lại sai một lần nữa là nghiêm khắc quá đối với anh, cậu chỉ lo anh hư hỏng, lêu lổng. Cậu biết anh thông minh nhất trong năm anh em, đáng lẽ cậu phải hướng dẫn anh hơn là trừng phạt mỗi khi anh có lỗi. Năm anh học đệ nhị, có lần cậu xích chân anh vào chân bàn, có lần cậu cạo trọc đầu anh bắt quỳ ở cửa. Các anh hôm nay có được chút học hành vốn liếng là do mợ. Ngày cậu đi kháng chiến, nếu mẹ các anh như người ta thì bây giờ các anh đi đạp xích lô hết. Do đó, ít khi cậu tranh cãi với mợ những chuyện trong nhà. Cậu chỉ muốn anh hoàn tất đại học, cứ đậu cử nhân, kỹ sư đi rồi muốn yêu nước, thương nòi gì cũng được, muốn văn chương, cách mạng gì cũng không sao. Đâu phải cậu không thích chuyện thay đổi, nhưng anh chưa có đầy đủ cái vốn liếng học thức thì chỉ lót đường cho người mà thôi.”

    “Ngày anh bỏ học đăng lính, cũng là ngày cậu buồn bã nhất, kể từ khi gia đình di cư vào Nam, vì cậu mong anh có được một tương lai rực rỡ hơn các anh Phong, Lưu, Hoạt, Điệu. Anh thông minh, học một hiểu hai, muốn phục vụ xứ sở có nhiều cách hữu hiệu hơn hà tất cứ phải đi lính.”

    “Rồi cậu lại sai lầm một lần nữa, đáng lẽ cứ để anh ở Biệt động quân, hay vận động cho anh về Nhẩy dù cho hợp với ước mong của anh, thì cậu lại vận động cho anh về Quân cảnh, muốn anh có chút điều kiện để hoàn tất cái học vấn nửa vời của anh. Chỉ vì bao nhiêu người cũng muốn như cậu, muốn con mình an thân, mà bây giờ kết cuộc thê thảm thế này.”

    “Anh tìm cách xuất ngoại đi, nếu không đi được thì nhớ những điều cậu đã nói hôm trước. Ai cũng chỉ một lần chết thôi. Chúng bắt được, anh sẽ chết nhục nhã, cay đắng. Phần chị ấy và các cháu cứ yên tâm, cậu sẽ tìm về đây. Nhớ kỹ những gì cậu vừa nói.”

  3. “I was just a nobody in Việt Nam, only a common person of my generation in the two wars. I was serving the South Việt Nam Army with all my heart, but I have not contributed anything great to my people nor to my army.  I have never strived to make myself out to be a hero, and I have never been one. I’ve done nothing important, either good enough to boast about or bad enough to write a book to justify.” – Excerpt from Preface of Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier By Nguyễn Công Luận.

    “Tôi chẳng là ai cả tại Việt Nam, chỉ là một người bình thường của thế hệ của tôi trong hai cuộc chiến tranh. Tôi đã phục vụ Quân Đội Nam Việt Nam với tất cả tấm lòng của tôi, nhưng tôi đã không cống hiến được bất cứ điều gì to tát cho dân tộc của tôi hoặc quân đội của tôi. Tôi không bao giờ gắng sức để tự làm cho cá nhân tôi trở thành anh hùng, và tôi không bao giờ là anh hùng. Tôi không làm điều gì quan trọng, đủ tốt đẹp để khoe khoang hoặc đủ tệ hại để phải viết một quyển sách để biện minh.” – Trích từ Lời Nói Đầu của quyển hồi ký Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier; Tác giả Nguyễn Công Luận.

    Ghi chú thêm: Ông Nguyễn Công Luận đã qua đời vào đầu năm 2017.