Quan sát. Lắng nghe. Ghi nhận. Chia sẻ

Những Tựa Đề

Thân tặng các bạn Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 31
Thế hệ cuối cùng của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam

Trần Trung Tín

Bờ tre quê hương. Tay súng anh gìn giữ. Tôi hát vang giữa đời để người vui1

Tháng 4, 2015 – Tại một nơi không phải là Việt Nam, ánh chiều thời gian đang bắt đầu triệt thoái vào vùng không gian hư ảo: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.”2

Bất chợt gặp lại một điều gì đó…

Rất mơ hồ…

Như ‘Con Chim Trốn Tuyết’3
Theo ‘Hương Rừng Cà Mau’4
Ngập ngừng qua ‘Đò Dọc’5
Ngược ‘Dòng Sông Định Mệnh’6
‘Trở Về Mái Nhà Xưa’7

Một điều gì đó ‘Tưởng Rằng Đã Quên’8

Như ‘Tant Qu’Il Y Aura Des Hommes,’ lại bất ngờ xuất hiện trong ‘Khói Sương’ (truyện ngắn của Tường Thúy, Đặc san Đa Hiệu số 97, tháng 01/2013).

Rồi sau đó? Là sự trở về của ‘Hồn Ma Cũ,’9 “những hồn ma thương mến,” mang theo bao kỷ niệm được ấp ủ, được lưu giữ nơi những phim ảnh, ấn phẩm, sáng tác phẩm trong văn học nghệ thuật tại miền Nam Việt Nam vào hơn bốn thập niên trước.

40 năm trôi qua: Là cả một quãng đường rất dài trong ‘Cõi Người Ta.’10 Trong suốt khoảng thời gian này, đã có biết bao giá trị quý báu được gầy dựng và từ lâu được tích lũy trong kho tàng văn học nghệ thuật của miền Nam tự do đã bị hủy diệt và bôi xóa một cách có hệ thống bởi những ‘Kẻ Tà Đạo?’11

40 năm nhìn lại: Có lẽ đã đến lúc chúng ta hãy cùng ‘Biển Trầm Lặng’12 bơi về vùng quá khứ để ngụp lặn trong kỷ niệm của những năm xưa. Cùng là ‘Để Tưởng Nhớ Mùi Hương’13 của những hoa thơm cỏ lạ đã một thời đơm bông, kết trái nơi khu vườn văn học nghệ thuật của miền Nam tự do.

 *****

Tant Qu’il Y Aura Des Hommes là tên của một phim theo ấn bản Pháp ngữ, được chuyển sang Việt ngữ mang tựa đề ‘Thói Đời.’  Phim này, nguyên bản Anh ngữ mang tên From Here to Eternity, lấy bối cảnh là một đơn vị quân đội Hoa Kỳ đồn trú tại Hawaii trước Thế Chiến II.

Giống như một ‘Guồng Máy’14 chưa hoàn hảo, ‘Thói Đời’ vẫn còn nhiều khuyết tật.

Trong đó, binh nhì Prewitt (tài tử Montgomery Clift) bị trù dập thảm thiết vì anh không chấp nhận chuyện khấu tấu, khom lưng phục vụ cho quyền lợi cá nhân của viên sĩ quan đại đội trưởng hay lạm dụng quyền thế.

Điển hình cho mẫu người quân nhân thuần túy, mặc lên người bộ quân phục nhưng Prewitt không xem đó là thứ nhãn hiệu có cầu chứng để hợp thức hóa việc trốn tránh trách nhiệm như các phần tử trốn quân dịch có môn bài, lính ma, lính kiểng. Hoặc như những thành phần tương cận, chuyên lợi dụng quân phục nhằm mưu danh giành lợi cho bản thân, hãnh tiến khoe khoang và ‘Nổ Như Tạc Đạn.’15

Với Prewitt, muốn tới đâu thì tới, anh không bao giờ làm chuyện ‘Vang Tiếng Ruồi Xanh.’16

‘Thói Đời’ cũng ngập tràn uất hận như tiếng kèn thê thiết của Prewitt khóc bạn Maggio (tài tử Frank Sinatra) đã chết vì bị hành hạ.

Máu sẽ phải trả bằng máu!  Để trả thù cho bạn, trong trận đấu dao tay đôi ngoài phố, nơi góc hẻm không người qua lại, Prewitt đâm chết viên trung sĩ đã làm Maggio thiệt mạng. Đổi lại, anh cũng bị trúng dao. Ôm bụng đầy máu, lê lết về được đến nhà người yêu thì Prewitt gục hẳn.

Vài ngày sau, dù đang trong tình trạng vắng mặt bất hợp pháp và vết thương còn chưa kín miệng, nhưng khi nghe radio báo máy bay Nhật bỏ bom Trân Châu Cảng, Prewitt vẫn gượng dậy, mặc lên người bộ quân phục và ngay lập tức tìm cách trở về đơn vị.

Trước người yêu đang khóc ngất phản đối, Prewitt chỉ đơn giản: “Anh phải trở về đơn vị vì anh là một người lính.

Khi đó, Prewitt hoàn toàn không biết đến việc viên sĩ quan đại đội trưởng của anh vừa bị thanh tra quân đội loại khỏi quân ngũ vì tội lạm dụng quyền thế.

Trong bóng đêm, lần mò theo đường tắt tìm về doanh trại, Prewitt đã bị bắn chết vì lính tuần nhận lầm anh là quân địch.

Ở vào những giây phút cuối cùng của ‘Đêm Dài Một Đời,’17 Prewitt đã trở về.

Vẫn “ngang tàng, bướng bỉnh, nhưng vẫn yêu quân đội hơn bất cứ ai khác…,” như ‘Lời Cuối’18 của trung sĩ Warden (tài tử Burt Lancaster) chào vĩnh biệt ‘Chiến Hữu’19 Prewitt.

Nằm đó. Xuôi tay. Khoảnh khắc trở về của Prewitt cũng là bắt đầu cho một vĩnh viễn ra đi.  

Chẳng bao giờ ‘Thói Đời’ lại vắng thiếu những trớ trêu nghịch lý!

Quả sẽ là một điều thừa thãi khi luận bàn thêm về giá trị của phim Tant Qu’il Y Aura Des Hommes (nguyên bản là From Here to Eternity, 8 giải Oscars, 1953).  

Tuy nhiên, khi lược qua nội dung của cuốn phim, người viết chỉ hy vọng có thể làm nổi bật giá trị của việc chuyển ngữ, đặc biệt là riêng nơi tựa đề: ‘Thói Đời.’

Ở đây, người làm công việc chuyển ngữ phim đã cho thấy họ sở hữu một cảm nhận hết sức tinh vi và một khả năng diễn đạt hết sức tài tình.  

Sắc như ‘Lưỡi Dao Cạo,’20 chỉ gói ghém vỏn vẹn trong hai chữ, ‘Thói Đời’ đã cắt bỏ được hẳn những lộng ngôn, sáo ngữ để đến thẳng ngay điều cốt lõi mà Tant Qu’il Y Aura Des Hommes muốn truyền đạt.

Và điều đó chính là: ‘Ngoài Cửa Thiên Đường’21 của đời quân ngũ – vốn luôn luôn nồng tình chiến hữu và ấm nghĩa bạn bè – vẫn còn hiện hữu cả một địa ngục truân chuyên, nhan nhản bất công và phi lý, mà bản thân người lính thường vẫn phải đơn phương hứng chịu.

Cô đọng như một nguồn sáng tập trung, ‘Thói Đời’ đã chiếu rọi vào được cả hai mặt hào hùng và thảm đạm của đời lính.

Được xếp đúng nơi, đặt đúng chỗ, hai chữ ‘Thói Đời’ đã đúng lúc được ký thác vào dòng luân chuyển trong mạch diễn dịch để giúp khán giả hình dung được sự thể khúc mắc và đa dạng.

Rất đơn giản, ‘Thói Đời’ đã lặng lẽ góp phần kiến tạo nhịp cầu thông thoại giữa các từng lớp khán giả với một vấn đề thật nhậy cảm và thật phức tạp.

Một chuyển ngữ như thế xứng đáng được kể là một thành tựu, nếu không muốn nói đó còn là một thành tựu rất nghệ thuật, hiểu theo nghĩa của điều mà Leonardo da Vinci đã nhận xét: “Simplicity is the ultimate sophistication.” (Tạm dịch: Giản dị là một sự tinh tế tối hảo.)

Thực vậy, chuyển ngữ tựa đề của phim hoặc của tác phẩm là việc có khi đòi hỏi rất nhiều tim óc.

Như trường hợp tác phẩm ‘Đỉnh Gió Hú’22 (Wuthering Heights). Người viết được nghe kể lại là Nhất Linh đã rất đắn đo, cân nhắc trong phần dịch tựa đề quyển này. 

Thực ra Wuthering Heights là tên riêng của một farmhouse ở Yorkshire, phía Bắc nước Anh, nơi câu truyện diễn ra.

Một cách lả lướt, tựa đề này có thể được dịch là Trang Trại Wuthering Heights.

Mà ‘chân phương,’ thì dịch là Nhà Vườn hoặc Nông Hộ Wuthering Heights.  

Nhưng những tựa đề như thế, khi đọc lên, nghe thấy nếu không phù phiếm, thì cũng rất ngây ngô.

Hẳn vì vậy, Nhất Linh đã phải cố công nặn óc tìm cho được ‘Đỉnh Gió Hú.’ 

Sau này dịch giả phóng tác quyển ‘Kiều Giang’23 là Hoàng Hải Thủy cũng đã phóng tác quyển Wuthering Heights, và vẫn giữ nguyên tựa đề ‘Đỉnh Gió Hú.’

Ngắn gọn như một nét phác, tựa đề ’Đỉnh Gió Hú’ dễ làm người đọc liên tưởng đến đỉnh núi cao vợi, luôn bị bao phủ bởi mưa gào gió lộng.

Tuy nhiên, ’Đỉnh Gió Hú’ đó thực sự không phải là một đỉnh núi!

Nhưng đã không phải là một đỉnh núi, liệu đó có là đỉnh của một lâu đài ngà ngọc? Hay đó là đỉnh của một bảo tháp vàng son đang bị ‘Lũ Người Quỷ Ám’24 chiếm lĩnh, ngày đêm mở hội và điên cuồng gào rú?

Hay nét chấm phá đơn sơ đó qua tựa đề ‘Đỉnh Gió Hú’ chỉ là khởi thảo của một bức tranh lạnh lẽo, u ám?

Và, có thể nào, bên trong bức tranh đó sẽ ghi lại được đậm nét toàn bộ những bức phá của tột đỉnh tồi tàn và gớm ghiếc, vốn được hà hơi vực dậy từ xó xỉnh tối tăm, ẩm mốc nào đó của một tâm tư ngạ quỷ?

Rồi đến lúc đi sâu vào bên trong ‘Đỉnh Gió Hú,’ độc giả dễ bị tối mặt khi gặp phải những âm mưu thâm hiểm khởi nguồn từ mặc cảm tự ti thua kém, dần dà phát triển và loang dần sang cố chấp sân hận, rồi cực kỳ sôi sục trong một tâm can căng cứng độc chất hận thù.

Nhưng những độc hại như thế không phải chỉ có thể tìm thấy trong một thế giới “hư cấu,” như trong thế giới của một Wuthering Heights – ‘Đỉnh Gió Hú.’

Mà tâm địa ung thư bám trụ nơi tình người lở loét luôn luôn muốn nuôi dưỡng và cổ xúy căm thù đều là những gì hoàn toàn có thực!

Đỉnh cao kết hợp các cặn bã dị hợm này chỉ có thể là những đại họa có tầm mức tàn phá và hủy hoại vượt xa những gì ghê rợn nhất trong ‘Đỉnh Gió Hú.’

Khi quyết định chọn ‘Đỉnh Gió Hú,’ Nhất Linh đã thể hiện được sự “thả lỏng” và không muốn hoàn toàn trói buộc nội dung của tác phẩm này vào địa danh Wuthering Heights.

Như thể muốn nói lên rằng những sự việc ẩn khuất, tăm tối đó không nhất thiết phải bị giới hạn hay bị đóng khung trong khuôn khổ của một hữu hạn vật lý.

Việc thả nổi “không định hướng” đó còn có thể giúp cho người đọc giảm đi được những tiên kiến có thể bị mang đến ngay tự ban đầu do bởi tựa đề của tác phẩm.

Điều này cũng giúp đem đến thêm cho người đọc nhiều tự do trong việc tìm tòi, khám phá và chọn lựa sự suy tưởng riêng cho chính họ.

Chẳng vậy mà đâu đó đã có chỗ ghi là một tác phẩm sau khi ra đời, sẽ có đời sống riêng (với độc giả) của nó mà chính tác giả tạo ra tác phẩm đó cũng không thể biết.

Nói như thế, nhưng nhìn từ một góc độ khác, sẽ lại có những tác phẩm có tựa đề mà khi dịch, gần như không có được một chọn lựa nào khác.

Như trường hợp quyển truyện dịch ‘Hai Mươi Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà’25 (Twenty-Four Hours in the Life of a Woman).  

Chọn được một tựa đề “bắt mắt” như vậy thì cách gì mà người phàm lại không muốn đọc?

Phải có một tí “sex” trong ‘Hai Mươi Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà’ chứ?  

Có ma nữ khát tình nào đương giữa độ ‘Nửa Đời Hương Phấn’26 lại đang thao thức thở dài ‘Tôi Nhìn Tôi Trên Vách’27 bên ‘Khung Cửa Hẹp’28 không đây?  

Hay có cô tiểu thư ‘Thời Thượng’29 khuê các nọ đang ‘Trong Vòng Tay Đàn Ông’30 lại chập chờn lẩm nhẩm dâng lên ‘Lời Nguyện Trong Không?’31

Hoặc có người nữ nghệ sĩ tài hoa xuân sắc nào đó đang thẫn thờ kể lại tâm trạng có một không hai trong đời trình diễn:  Khi đèn sáng bật lên và màn từ từ hạ, mới chợt nhận ra rằng chỉ còn trơ trọi mỗi một mình đang miên man độc diễn trên ‘Sân Khấu Về Khuya’32 đã không còn khán giả!

Liệu tác phẩm ‘Hai Mươi Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà,’ trong nguyên bản năm xưa, có đã từng là một hiện tượng văn học nóng bỏng bên trời Tây tuyết lạnh?

Như tác phẩm ‘Vòng Tay Học Trò’33 ngày nào, khởi đi từ thành phố cao nguyên miền nhiệt đới có gió lạnh mây mù mang tên Đà Lạt, đã một thời gây cơn bão nóng trong văn học miền Nam?

Cũng như, biết đâu rằng đó lại chẳng là bút ký của người đàn bà đoan trang khép kín?

Vào một ngày đẹp trời nào đó, mang một ‘Tâm Tình Hiến Dâng,’34 đang thơ thới hân hoan khi hạnh ngộ với tình yêu.

Nhưng đàng sau cái-gọi-là ‘Yêu’35 đó có phải là dục tình của con cái động đực?

Si mê: ‘Ghen?’36

Sa ngã: ‘Loạn?’37

Hay cuồng bạo như ‘Sóng Thần?’38

Tất cả xẩy đến chỉ trong một ngày!

Phải chăng chỉ vỏn vẹn trong 24 giờ đó, người đàn bà này đã được sống trọn vẹn với các xúc cảm tột cùng và rung động tột độ? Những điều mà có khi đi hết cả cuộc đời, có người vẫn chưa có cơ duyên trực nghiệm.

Hoặc khi ‘Hai Mươi Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà’ vừa chấm dứt, con lắc của đồng hồ thời gian chỉ mới giợm bước sang ‘Giờ Thứ Hai Mươi Lăm’39 và chưa kịp rẽ sang khoảng không gian khác, thì những giằng xé – trong một ngày “không” như mọi ngày đó – đã trở thành những vuốt ve kỷ niệm.

Như nắng ấm ban mai đang chuyển hoán sương đêm ướt lạnh thành tơ trời ấm áp, đang chới với trước sự mơ hoặc, quyến rũ của nỗi bâng khuâng man mác … ‘Hình Như Là Tình Yêu.’40

Cái tuyệt của những tựa đề “trực khởi” mang tính khiêu khích là dễ tạo ra thắc mắc cho độc giả. Và đã có thắc mắc là độc giả thường hay có ý tìm đọc.

Mặt khác, cũng có tựa đề khi đọc lên, rất dễ gây hiểu lầm như ‘Số Không và Vô Tận’41 (Le Zéro et l’Infini).

Hai tựa đề Việt và Pháp ngữ này đọc lên nghe như tên của sách chuyên toán.

Còn ấn bản Anh ngữ có tựa đề là Darkness at Noon (tạm dịch: Đêm Đen Giữa Ban Ngày) thì lại nghe như tên của truyện kinh dị.  

Thực ra quyển này, nguyên bản Đức ngữ, mang tựa đề: Sonnenfinsternis (Nhật Thực), viết về sự khủng bố toàn diện của thời Stalin để triệt hạ các phần tử bị xếp vào “thành phần chống phá cách mạng!”

Nhân vật chính ở đây là một Bolshevik kỳ cựu thuộc thành phần tiên phong dựng đảng.

Về mặt lý luận chính trị, ông ta rất vững chãi.

Về mặt tinh thần chiến đấu, nhân vật này thuộc loại ‘Những Người Không Chịu Chết.’42 Đầu hàng là hai chữ chưa từng có trong tự điển của ông ta. Khi lọt vào tay địch, ông ta tuyệt đối không khai báo và sẵn sàng chết để bảo vệ đảng.

Nhưng trớ trêu thay, công an ban bảo vệ chính trị lại bắt giam người cộng sản kiên cường này chỉ vì ông đã tỏ ra ngờ vực khả năng lãnh đạo của đảng.

Nhìn quanh, ông nhận thấy: Sau hàng chục năm độc quyền toàn trị và tiêu phí sinh mạng của nhiều triệu người dân, đảng của ông đã không đưa đất nước tiến lên được một vị trí khá hơn và tương xứng hơn trong cộng đồng văn minh của nhân loại.

Ngược lại, thiên đường cộng sản càng ngày càng lùi ra xa thẳm và đất nước mỗi ngày một thêm suy đồi và thoái hóa.

Nhìn lại chính mình, khi đối diện với lương tri, nhiều lần ông ta đã phải tự hỏi: Ông đang chiến đấu cho ai?  Chiến đấu cho cái gì?

Tại trung tâm thẩm vấn, với những lý luận quỷ biện tráo trở kèm theo những phương pháp tra tấn cực kỳ tinh vi, cán bộ “chấp pháp” đã “làm việc” cặn kẽ với nhân vật này. Trong một thời gian dài, bất kể ngày hay đêm.

Khi cân não suy sụp và thể chất kiệt quệ vì bị khủng bố liên tục, nhân vật này hoàn toàn mất hẳn ý niệm về ngày-đêm.

Cuối cùng, ý chí đề kháng của ông hoàn toàn bị bẻ gãy. Ông ta đã đầu hàng.

Trong khi chờ ký giấy nhận tội “phản quốc,” nhân vật Bolshevik này chỉ ao ước sau đó sẽ được ngủ thẳng giấc. Hàng đêm không còn bị gọi dậy “làm việc” và không còn phải lo khoét óc ra để tìm cách đối phó với cực hình tra tấn qua hình thức khảo cung để phải “thành thật khai báo.”

Với người cộng sản, khi tiến hành cuộc cách mạng, họ đã sử dụng “chuyên chính vô sản” làm “mũi nhọn xung kích” để tấn công, hủy diệt và san bằng mọi hệ thống, mọi định chế, mọi nấc thang giá trị.

Những nỗ lực trên nhằm đưa mọi thứ – kể cả Con Người – lùi lại xuống con Số Không nguyên thủy.

Mang niềm tin của những tín đồ cuồng tín, sẵn sàng hiến thân cho cuộc thánh chiến, người cộng sản cuồng nhiệt tin rằng từ con Số Không, với những “tư duy mới,” “con người mới xã hội chủ nghĩa,” họ sẽ xây dựng lên được một xã hội mới, ưu việt hơn, và một trật tự mới, công bằng hơn.

Tất cả những chỉ đạo và điều hướng của người cộng sản đều đặt căn bản trên những lý thuyết kinh điển của họ.

Tuy vậy, khi đem ra đối chiếu và chứng nghiệm với hiện thực, những lý thuyết kinh điển đó của người cộng sản đã trở thành những ảo tưởng.  

Cũng gần giống như hai đường thẳng song song trong toán học, tương quan giữa hiện thực con người và ảo tưởng cộng sản bắt đầu từ Số Không và chỉ có thể gặp nhau tại Vô Tận – như được gợi ý qua tựa đề của bản dịch Pháp ngữ: Le Zéro et l’Infini.

Trở lại với sách dịch, theo nhận xét riêng, cũng có quyển có tựa đề được chuyển ngữ hơi “thoải mái” quá, như trường hợp của tác phẩm ‘Đôi Bạn Chân Tình.’43

Trong truyện này, Narcissus và Goldmund là hai nhân vật chính, có bản chất hoàn toàn đối cực.

Là một tu sĩ thầy giáo, Narcissus sống khép kín theo khuôn khổ và nguyên tắc của lý trí.

Là một lãng tử tu xuất, Goldmund sống buông thả theo cảm tính và đam mê của bản năng.

Tuy trái ngược nhau, nhưng một Lý trí, tiêu biểu nơi Narcissus, cũng phải cần đến một sự hiện hữu có tính cách “hỗ tương” của một Bản năng, thể hiện nơi Goldmund.

Cũng tương tự như không thể chỉ có Ngày mà còn cần phải có Đêm. Hoặc như có Nam thì cũng cần phải có Nữ. Và ngược lại.

Bởi đó dù mỗi người mỗi ngả, nhưng sau một thời gian dài, khi Narcissus và Goldmund gặp lại nhau, người này vẫn có thể “tri ngộ” được giá trị của quan niệm sống hoàn toàn đối nghịch, được thể hiện qua cách sống của người kia, trên bước đường đi tìm ý nghĩa thực sự cho đời sống cho riêng mỗi người.

Trong chiều hướng đó, thay vì hai chữ “chân tình,” có lẽ hai chữ “tri kỷ” nên được dùng để diễn tả tình bạn rất đặc biệt của hai nhân vật hoàn toàn “đối cực” này.

(Nhưng rõ ràng là khi đọc lên, thì Đôi Bạn Chân Tình quả tình nghe êm tai hơn Đôi Bạn Tri Kỷ.)

Một vài quyển sách triết học, truyện, thơ, tôn giáo… đã phát hành trước 30/4/1975

Cũng tương tự, là trường hợp tác phẩm ‘Câu Chuyện Của Dòng Sông,’44 nói về Siddhartha và hành trình đi tìm giác ngộ.

Theo đó, Siddhartha đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Trong suốt tiến trình này, dòng sông đã đóng vai trò tích cực trong việc “chuyển hóa,” giúp Siddhartha vượt qua được những khó khăn ngoại khổ và cuối cùng đã đưa Siddhartha đến bến bờ giác ngộ.

Nhưng theo suy nghĩ cứng nhắc, và chắc chắn là chưa “thoáng” của người viết, dòng sông đó chưa thể thay thế Siddhartha được.

Vì dù có đóng vai trò quan yếu trong sự chuyển hóa Siddhartha, dòng sông đó cũng vẫn chỉ là ngoại vật so với các biến chuyển nội tâm của Siddhartha.

Mặt khác, rất có thể hai chị em dịch giả Phùng Khánh (về sau xuất gia thành ni sư Trí Hải) và Phùng Thăng khi chọn tên quyển sách đã hữu ý chọn lấy dòng sông như là một ẩn dụ:  Trước bất cứ hành trình nào để đi tìm giác ngộ, tâm tư cũng cần nên được cởi mở, thoáng mát như một dòng sông đang ung dung lưu chuyển.

Sang đến đầu thập niên 1970, nói đến truyện dịch mà không nhắc đến “cơn sốt” ‘Bố Già’45 thì phải kể là cả một “trọng tội!”

Có thể nói, Ngọc Thứ Lang là dịch giả đã “thuần hóa” được The Godfather trong Việt ngữ.  Ông đã “mua đứt” hai chữ ‘Bố Già’ và, rất xứng đôi vừa lứa, “đem gả” cho The Godfather.  

Rõ ràng là trong chữ The Godfather làm gì có phần nào có thể được trực dịch thành chữ ‘già.’  

Đứng riêng ra, thì hai chữ ‘bố’ và chữ ‘già’ này còn xưa hơn trái đất.  Mà cũng nào có mới lạ kỳ ảo gì!  

Dzậy mà tới khi Ngọc Thứ Lang đem hai chữ này ra “chế” thành một đặc ngữ mới để mô tả… Bố Già: The Godfather (who else!), thì phải nói là “độc” còn hơn… “thịt dzịch!”

Mặt khác, tính theo tuổi đời, thì ông trùm mafia cha Vito Corleone già chát, mà ông trùm mafia con Michael Corleone thì trẻ măng.

Tìm đâu ra cho được chữ mới để cặp đôi với chữ “Bố” cho đúng “tiêu chuẩn” hai cha con nhà họ Corleone đây? No way, José!

Thành thử khi chọn chết hai chữ ‘Bố Già,’ Ngọc Thứ Lang đã “xâm mình” làm một màn “phá chấp” độc đáo.

Trúng trường hợp cắc cớ này mà gặp thứ dịch “giả” thuộc trường phái word for word, mot à mot (chữ ‘chọi’ chữ), thì không biết chừng The Godfather sẽ bị (trúng) dịch thành “Cha Thượng Đế.”

Tới hồi đó, chắc độc giả chỉ có nước thắt họng vì nỗi… ‘Sầu Lẻ Bóng!’46

Đặc biệt, trong quyển này còn có những mẩu đối thoại rất “màu sắc,” như lúc Bố Già Vito Corleone răn dậy anh con cả Sony Corleone, vốn là loại người mới đẻ ra đã có máu thích đi ăn cướp và cũng là một tiêu biểu đặc sắc cho những thành phần “gia đình liều mạng,” chuyên giải quyết mọi đụng chạm, tranh chấp với thiên hạ bằng những cú đấm hoặc nổ súng bắn bỏ.

Trong “huấn từ” giảng điều “phải quấy” cho cậu con quý tử nhằm khuyến cáo nên tránh bạo lực và “thượng tôn pháp luật,” Bố Già Vito Corleone đã phán, đại ý: ‘Một thằng luật sư ôm cạc táp “làm ăn” còn ngon lành hơn cả chục thằng bặm trợn bịt mặt xách súng đi ăn cướp.‘ Đọc lên nghe thiệt là muốn… “bứt gân!”

Với ‘Bố Già,’ Ngọc Thứ Lang đã thực hiện nhiều “pha” chuyển ngữ hết sức ngoạn mục. Làm “giựt mắt” hảo thủ mọi nơi.

Từ những hiệp sĩ quý tộc bạt kiếm cùng ‘Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ’47 cho tới mãi ‘Hai Mươi Năm Sau.’48

Qua đến dân băng đảng bụi đời ‘Loan Mắt Nhung’49 xưng hùng, xưng bá bên ‘Kinh Nước Đen.’50

Sang tới các cao thủ võ lâm thích ‘Tiếu Ngạo Giang Hồ’51 đem kiếm ý “vô chiêu thắng hữu chiêu” ra luận bàn, tỉ đấu cùng ‘Lục Mạch Thần Kiếm.’52

******

40 năm đã qua: Có dịp hoài nhớ lại sách báo, phim ảnh, mới thấy những người làm công việc chuyển ngữ các phim ảnh có giá trị sang Việt ngữ quả là những “chiến sĩ vô danh” trong lãnh vực dịch thuật.

Thực vậy, đã có ai biết được dịch giả nào đã chuyển ngữ tựa đề của phim Tant Qu’il Y Aura des Hommes thành hai chữ hết sức “nhức nhối:” ‘Thói Đời?’

Hoặc ai là dịch giả đã chuyển ngữ phim Gone with the Wind (10 giải Oscars, 1940) để tựa đề tên phim đã, vẫn và sẽ luôn mãi bạt ngàn trong Việt ngữ qua ‘Cuốn Theo Chiều Gió?’

Quả thực ‘Cuốn Theo Chiều Gió’ chính là thành quả trác tuyệt của một sự chuyển ngữ tối giản. Điều đó cũng có thể được xem như là một thách đố không thể vượt qua được đối với những cố gắng sau này nhằm tìm kiếm chữ mới chính xác hơn và độc đáo hơn để dịch Gone with the Wind.

Sẽ là cả một thiếu sót to lớn nếu chỉ nói đến phim và không đề cập đến tác phẩm ‘Cuốn Theo Chiều Gió’53 được Vũ Kim Thư xuất sắc chuyển ngữ từ quyển Gone with the Wind.  

Đọc ‘Cuốn Theo Chiều Gió,’ dưới cả bầu trời sụp đổ, vào thời buổi cực kỳ tăm tối ngay sau khi miền Nam Việt Nam bị cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm, với riêng người viết, là một điều không thể nào quên.

Nhắc đến thời kỳ tối tăm của miền Nam sau ngày 30/4/1975 là phải nói đến việc cộng sản tiêu hủy, đốt bỏ sách báo trong miền Nam.

Chiến dịch đốt sách báo miền Nam của chính quyền cộng sản sau 30/4/1975

Khi đó, sách báo tuyên truyền của cộng sản ngoài Bắc đã tràn ngập trong Nam. Hàng ngày, cùng với những luận điệu mị dân và nhồi sọ, từ sáng sớm đến tối đêm, radio, TV của chính quyền trung ương, và loa phóng thanh của chính quyền địa phương đã liên tục sách nhiễu, truy bức và khủng bố người dân bằng những “thông tin” sặc mùi sắt máu của “bạo lực cách mạng.”

Phản ứng cấp thời là phải tìm “sách cấm” để học hỏi và tìm hiểu thêm về cộng sản và con người của họ.

‘Số Không và Vô Tận,’ ‘Giai Cấp Mới,’54 ‘Bí Danh,’55 ‘Thuật Trị Nước tại Liên Xô,’56 ‘Quần Đảo Ngục Tù’57 đã là những quyển “sách cấm” điển hình đóng góp rất nhiều cho bản thân người viết trong việc học hỏi các lập luận ngụy biện (fallacy) qua phương pháp luận lý biện chứng (dialectic) của người cộng sản.

Nhưng cho đến khi tìm đọc được các tác phẩm biên khảo ‘Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng’58, ‘Cách Mạng và Hành Động’59 và ‘Từ Binh Pháp Tôn Ngô đến Chiến Lược Nguyên Tử’60 thì sự tìm hiểu của bản thân người viết về các nhận thức căn bản của các trào lưu tư tưởng cận đại mới được sáng tỏ thêm hơn trong thời điểm đó. Một thời điểm mà tại Việt Nam hai chữ “cách mạng” đồng nghĩa với “thảm họa.” Vì đó là hậu quả không thể tránh được, một khi não bộ “tư duy” của các cấp lãnh đạo cộng sản chỉ có khả năng nẩy mầm, tăng trưởng và mọc rễ quẩn quanh trong một hệ tư tưởng què quặt.

******

Tháng Tư năm nay, 2015, đánh dấu 40 năm miền Nam tự do hoàn toàn bị mất vào tay cộng sản.

Khi ghi lại “Những Tựa Đề,” người viết hy vọng sẽ giúp quý vị bạn đọc phần nào tìm lại được một số sáng tác hoặc tác phẩm năm xưa của một miền Nam hiền hòa nhưng kém may mắn, ít thanh bình và nhiều ly loạn.

Đặc biệt là để cảm tạ các tác giả, soạn giả, các văn nghệ sĩ, mà rất nhiều vị nay đã khuất bóng, đã nhiều công xây dựng và bồi đắp cho nền văn học nghệ thuật của miền Nam tự do năm xưa được phong phú và đa dạng.  

Đối chiếu với lịch sử trước mắt, chúng ta có thể đoan quyết và không sợ lầm lẫn là miền Nam, nói riêng, hay cả Việt Nam, nói chung, sẽ không bao giờ có thể có được một nền văn học nghệ thuật có giá trị một khi mọi người dân không có tự do suy tưởng, tự do sáng tác, tự do báo chí và tự do ngôn luận.

Có được một ít thanh bình cho miền Nam thân yêu năm xưa còn là cả một nỗ lực không ngừng nghỉ của người lính đến từ nhiều thế hệ, trên khắp các nẻo đường đất nước.

Đàng sau những ‘Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh’61 là bao nỗi nhọc nhằn và khổ ải của mồ hôi, nước mắt và máu của người lính đã âm thầm chiến đấu và lặng lẽ hy sinh.

Để người dân miền Nam được tự do sinh sống. Để văn học nghệ thuật miền Nam được tự do phát triển, trong suốt hơn 20 năm, nếu chỉ tính từ ngày 20/7/1954 là ngày đất nước Việt Nam bị chia đôi cho đến ngày 30/4/1975 là ngày miền Nam tự do hoàn toàn bị nhuộm đỏ.

Trong hướng nhìn đó, “Những Tựa Đề” được ghi lại nơi đây cũng chính là để trân trọng vinh danh tất cả những Người Lính đã kiên trì chiến đấu, đã anh dũng ngã xuống để góp phần xây dựng và bảo vệ miền Nam tự do.

San Jose, California, Tháng 4, 201562

Trần Trung Tín



Chú thích

  1. Trăng Tàn Trên Hè Phố: Nhạc – Tác giả: Phạm Thế Mỹ
  2. Đây Thôn Vỹ Dạ: Thơ – Tác giả: Hàn Mặc Tử
  3. Con Chim Trốn Tuyết (Snow Goose): Văn – Tác giả: Paul Gallico; Dịch giả: Trần Phong Giao & Hoàng Ưng
  4. Hương Rừng Cà Mau: Văn – Tác giả: Sơn Nam
  5. Đò Dọc: Văn – Tác giả: Bình Nguyên Lộc
  6. Dòng Sông Định Mệnh: Văn – Tác giả: Doãn Quốc Sỹ
  7. Trở Về Mái Nhà Xưa (Come Back To Sorrento / Torna a Surriento): Nhạc – Tác giả lời Việt: Phạm Duy
  8. Tưởng Rằng Đã Quên: Nhạc – Tác giả: Trịnh Công Sơn
  9. Hồn Ma Cũ (truyện ngắn, trong tập truyện Ký Thác): Văn – Tác giả: Bình Nguyên Lộc
  10. Cõi Người Ta (Terre Des Hommes): Văn – Tác giả: Antoine de Saint-Exupéry; Dịch giả: Bùi Giáng
  11. Kẻ Tà Đạo: Văn – Tác giả: Nguyễn Xuân Hoàng
  12. Biển Trầm Lặng: Văn – Tác giả: Dương Kiền
  13. Để Tưởng Nhớ Mùi Hương: Văn – Tác giả: Mai Thảo
  14. Guồng Máy (L’Engrenage): Kịch – Tác giả: Jean-Paul Sartre (Từ chối không nhận giải Nobel Văn chương, 1964); Dịch giả: Trần Phong Giao
  15. Nổ Như Tạc Đạn: Văn – Tác giả: Hoàng Hải Thủy
  16. Vang Tiếng Ruồi Xanh: Văn – Tác giả: Nguyễn Thụy Long
  17. Đêm Dài Một Đời: Văn – Tác giả: Lê Tất Điều; Giải thưởng Văn chương, Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, Sài Gòn, 1966

    Ghi chú: Để có một thời điểm chính xác về việc quyển Đêm Dài Một Đời đoạt giải thưởng, nhờ qua người quen, tôi đã liên lạc được với nhà văn Lê Tất Điều để hỏi chi tiết và được ông cho biết:

    • ‘Cuốn “Những giọt mực” được giải của Tổng Thống VNCH, còn cuốn “ĐDMĐ” thì quả thực đoạt giải của Trung Tâm Văn Bút VN như nhà văn Nguyễn Mạnh Trinh viết. Tôi cũng không nhớ rõ năm nào, có lẽ 1966 hoặc 1967?’ (Email của nhà văn Lê Tất Điều gửi ngày 13/3/2015)
    • ‘Xét lại thì thấy sách ấn hành 1966, chắc là đoạt giải cùng năm ấy.’ (Email của nhà văn Lê Tất Điều gửi ngày 16/3/2015)

  18. Lời Cuối: Nhạc – Tác giả: Từ Công Phụng
  19. Chiến Hữu (Three Comrades, nguyên bản Đức ngữ: Drei Kameraden): Văn – Tác giả: Erich Maria Remarque; Dịch giả: Tâm Nguyên
  20. Lưỡi Dao Cạo (The Razor’s Edge): Văn – Tác giả: William Somerset Maugham; Dịch giả: Đỗ Khánh Hoan
  21. Ngoài Cửa Thiên Đường (phóng tác): Văn – Dịch giả: Hoàng Hải Thủy
  22. Đỉnh Gió Hú (Wuthering Heights): Văn – Tác giả: Emily Brontë; Dịch giả: Nhất Linh
  23. Kiều Giang (Jane Eyre): Văn – Tác giả: Charlotte Brontë; Dịch giả (Phóng tác): Hoàng Hải Thủy
  24. Lũ Người Quỷ Ám (The Possessed / The Devils, nguyên bản Nga ngữ: Бесы): Văn – Tác giả: Fyodor Dostoyevsky; Dịch giả: Trương Đình Cử
  25. Hai Mươi Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà (Twenty-Four Hours in the Life of a Woman): Văn – Tác giả: Stefan Zweig, người Áo; Dịch giả: Võ Phiến
  26. Nửa Đời Hương Phấn: Cải lương – Soạn giả Hà Triều & Hoa Phượng – Đạo diễn & Âm nhạc: Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông – Nghệ sĩ trình diễn: Thành Được, Thanh Nga
  27. Tôi Nhìn Tôi Trên Vách: Văn – Tác giả: Túy Hồng
  28. Khung Cửa Hẹp (La Porte Étroite): Văn – Tác giả: André Gide, Nobel Văn chương, 1947; Dịch giả: Bùi Giáng
  29. Thời Thượng: Văn – Tác giả: Mai Thảo
  30. Trong Vòng Tay Đàn Ông: Văn – Tác giả: Nguyễn Thụy Long
  31. Lời Nguyện Trong Không: Văn – Tác giả: Nguyễn Mạnh Côn
  32. Sân Khấu Về Khuya: Cải lương – Soạn giả Năm Châu – Nghệ sĩ trình diễn: Thành Được, Thanh Nga, Hữu Phước, Ngọc Giàu
  33. Vòng Tay Học Trò: Văn – Tác giả: Nguyễn Thị Hoàng
  34. Tâm Tình Hiến Dâng (The Gardener): Thơ – Tác giả: Rabindranath Tagore, Nobel Văn chương, 1913; Dịch giả: Đỗ Khánh Hoan
  35. Yêu: Văn – Tác giả: Chu Tử
  36. Ghen: Văn – Tác giả: Chu Tử
  37. Loạn: Văn – Tác giả: Chu Tử
  38. Sóng Thần: Nhật báo – Chủ biên: Chu Tử – Cộng tác: Trùng Dương; Thơ đen Tú Kếu; Hí họa Chóe
  39. Giờ Thứ Hai Mươi Lăm (La Vingt-Cinquième Heure, nguyên bản Romanian: Ora 25): Văn – Tác giả: Constantin Virgil Gheorghiu; Dịch giả: Lê Ngọc Trụ và Lê Thị Hay
  40. Hình Như Là Tình Yêu: Văn – Tác giả: Hoàng Ngọc Tuấn
  41. Số Không và Vô Tận (Le Zéro et l’Infini / Darkness at Noon, nguyên bản Đức ngữ: Sonnenfinsternis): Văn – Tác giả: Arthur Koestler; Dịch giả: Thạch Trung Giả
  42. Những Người Không Chịu Chết: Kịch – Tác giả: Vũ Khắc Khoan
  43. Đôi Bạn Chân Tình (Narcissus and Goldmund, nguyên bản Đức ngữ: Narziß und Goldmund): Văn – Tác giả: Hermann Hesse, Nobel Văn chương, 1946; Dịch giả: Vũ Đình Lưu
  44. Câu Chuyện Của Dòng Sông (nguyên bản Đức ngữ: Siddhartha): Văn – Tác giả: Hermann Hesse, Nobel Văn chương, 1946; Dịch giả: Phùng Khánh và Phùng Thăng
  45. Bố Già (The Godfather): Văn – Tác giả: Mario Puzo; Dịch giả: Ngọc Thứ Lang
  46. Sầu Lẻ Bóng: Nhạc – Tác giả: Anh Bằng
  47. Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Les Trois Mousquetaires): Văn – Tác giả: Alexandre Dumas; Dịch giả: Văn Lang
  48. Hai Mươi Năm Sau (Vingt Ans Après): Văn – Tác giả: Alexandre Dumas; Dịch giả: Hoài Anh
  49. Loan Mắt Nhung: Văn – Tác giả: Nguyễn Thụy Long
  50. Kinh Nước Đen: Văn – Tác giả: Nguyễn Thụy Long
  51. Tiếu Ngạo Giang Hồ (nguyên bản Hoa ngữ): Văn – Tác giả: Kim Dung; Dịch giả: Hàn Giang Nhạn
  52. Lục Mạch Thần Kiếm (nguyên bản Hoa ngữ): Văn – Tác giả: Kim Dung; Dịch giả: Hàn Giang Nhạn
  53. Cuốn Theo Chiều Gió (Gone with the Wind): Văn – Tác giả: Margaret Mitchell, giải Pulitzer, 1937); Dịch giả: Vũ Kim Thư
  54. Giai Cấp Mới (The New Class: An Analysis of the Communist System): Sách luận thuyết chính trị – Tác giả: Milovan Djilas, người Nam Tư; Dịch giả: Chính Tâm và Trương Tiến (Nhà xuất bản Ánh Việt, Sài Gòn, 1958)

    Ghi chú: Vào năm 2015, khi viết “Những Tựa Đề”, vì tài liệu về bản dịch năm 1958 của quyển ‘Giai Cấp Mới’ gần như không có trên Internet và vì không nhớ tên dịch giả cho nên phải ghi là “Dịch giả: người viết không còn nhớ tên”.

    Vào năm 2021, trong cố gắng tra cứu thêm, người viết đã rất may mắn tìm được tên các dịch giả Chính Tâm và Trương Tiến trong luận án tiến sĩ sử học của Tran, Nu-Anh (Trần Nữ Anh), mùa Xuân năm 2013, tại University of California, Berkeley: https://escholarship.org/content/qt4407j6sj/qt4407j6sj.pdf

  55. Bí Danh (The Secret Name, Farrar, Straus and Cudahy): Biên khảo – Tác giả: Lin Yutang (Lâm Ngữ Đường) – Dịch giả: Từ Chung
  56. Thuật Trị Nước tại Liên Xô (How Russia Is Ruled): Biên khảo – Tác giả: Merle Fainsod; Dịch giả: Thái Lăng Nghiêm
  57. Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago, nguyên bản Nga ngữ: Архипелаг ГУЛАГ): Văn – Tác giả: Aleksandr Solzhenitsyn, Nobel Văn chương, 1970; Dịch giả: Ngọc Tú Ngọc Thứ Lang
  58. Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng: Biên khảo – Tác giả: Nghiêm Xuân Hồng
  59. Cách Mạng và Hành Động: Biên khảo – Tác giả: Nghiêm Xuân Hồng
  60. Từ Binh Pháp Tôn Ngô đến Chiến Lược Nguyên Tử: Biên khảo – Tác giả: Nghiêm Xuân Hồng
  61. Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh (All Quiet on the Western Front / A l’Ouest Rien de Nouveau, nguyên bản Đức ngữ: Im Westen nichts Neues): Văn – Tác giả: Erich Maria Remarque; Dịch giả: Tâm Nguyên
  62. Cập nhật, ngày 28/2/2021: Sắp xếp lại tất cả các chú thích về tác phẩm và tác giả thành footnotes. Ghi chú thêm về quyển “Đêm Dài Một Đời.” Bổ túc thêm chi tiết về bản dịch của quyển “Giai Cấp Mới.” Sưu tầm thêm một vài hình ảnh về sách xuất bản trước ngày 30/4/1975 và một số chỉnh sửa khác.

6 Comments

  1. Bích Huyền

    Bài viết công phu, sâu sắc quá!
    Trên cả tuyệt vời…
    Tôi sẽ đọc lần nữa cho thêm thấm thía…
    Bích Huyền

    • editor

      Xin rất cảm tạ chị Bích Huyền đã đọc và đã rộng lượng trong nhận xét. Hy vọng “Những Tựa Đề” sẽ làm được tốt vai trò của viên gạch lót đường để giúp người đọc tìm lại được một phần nào vùng trời văn học nghệ thuật đầy màu sắc tươi đẹp của miền Nam tự do năm xưa. Thân kính. -Trần Trung Tín

  2. Như Hoa

    Một chữ thôi:
    Tuyệt!

    • editor

      Trong tiếng Việt, phải mất hơn một chữ mới “Cám ơn” được, chị Như Hoa! Thanks. -TTTín 😎

  3. Vanpho

    Quả thật là trên cả tuyệt…vời …

    • editor

      Cám ơn anh Vanpho đã đọc bài viết đã “cũ kỹ”, gần được 10 năm. Có dịp đọc lại, cảm thấy như thể những chuỗi dài kỷ niệm của từ nửa thế kỷ trước đang quay lại. Xin cám ơn anh. -TTTín

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *